Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý để hoạt động báo chí và các hoạt động liên quan đến báo chí phát triển, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của Nhân dân được bảo đảm và phát huy trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; đồng thời nhanh chóng, kịp thời điều chỉnh nhiều vấn đề nảy sinh; đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động báo chí; từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về báo chí.
1. Vai trò Luật Báo chí năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật trong việc tạo lập hành lang pháp lý
Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, Kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 05/4/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017.
Triển khai hướng dẫn thi hành Luật, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Đến nay, các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí đã được ban hành đầy đủ với 02 Nghị định và 04 Thông tư (03 Thông tư của Bộ Thông tin và Truyền thông, 01 Thông tư của Bộ Tài chính), cụ thể:
- Nghị định số 08/2017/NĐ-CP ngày 08/02/2017 của Chính phủ quy định về lưu chiểu điện tử đối với loại hình báo nói, báo hình và báo điện tử độc lập với cơ quan báo chí;
- Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 của Chính phủ quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính Nhà nước.
- Thông tư số 36/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về việc cấp phép hoạt động và chế độ báo cáo đối với loại hình báo nói, báo hình.
- Thông tư số 81/2017/TT-BTC ngày 09/8/2017 của Bộ Tài chính quy định chế độ thù lao cho người đọc, nghe, xem để kiểm tra báo chí lưu chiểu.
- Thông tư số 41/2020/TT-BTTTT ngày 24/12/2020 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết và hướng dẫn việc cấp giấy phép hoạt động báo in và báo điện tử, xuất bản thêm ấn phẩm, mở chuyên trang của báo điện tử, xuất bản phụ trương, xuất bản bản tin, xuất bản đặc san (thay thế Thông tư số 48/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016).
- Thông tư số 31/2021/TT-BTTTT ngày 31/12/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết và hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục cấp, đổi, cấp lại và thu hồi thẻ nhà báo (thay thế Thông tư số 49/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016).
Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý để hoạt động báo chí và các hoạt động liên quan đến báo chí phát triển, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của Nhân dân được bảo đảm và phát huy trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; đồng thời nhanh chóng, kịp thời điều chỉnh nhiều vấn đề nảy sinh; đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động báo chí; từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về báo chí. Luật Báo chí quy định khá đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, tạo điều kiện cho hoạt động nghiệp vụ báo chí, cũng như các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu và hợp tác, hỗ trợ cơ quan báo chí, tác nghiệp của phóng viên.
2. Những vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật Báo chí thông qua thực tiễn hoạt động
2.1. Khó khăn, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả nêu trên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật Báo chí 2016, một số quy định đã bộc lộ hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện. Sự phát triển vượt bậc, nhanh chóng của khoa học, công nghệ, truyền thông hiện đại đã dẫn đến những yêu cầu, đòi hỏi cao hơn trong lĩnh vực báo chí, cần phải hoàn thiện quy định pháp luật để điều chỉnh, quản lý kịp thời, phù hợp. Cụ thể:
(1) Về họp báo:
Đối với thủ tục họp báo của cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài do Bộ Thông tin và Truyền thông và các địa phương thực hiện (không bao gồm Hà Nội): Khoản 10 Điều 56 quy định rõ về thời gian nộp hồ sơ “ít nhất là 02 ngày làm việc trước khi tiến hành họp báo”.
Đối với thủ tục họp báo của cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam phân cấp cho địa phương thực hiện, Luật Báo chí năm 2016 không quy định cụ thể về thời gian giải quyết. Cụ thể như sau:
Tại khoản 3 Điều 41 quy định: “Cơ quan, tổ chức, công dân tổ chức họp báo phải thông báo bằng văn bản trước 24 giờ tính đến thời điểm dự định họp báo cho cơ quan quản lý nhà nước về báo chí” và tại Khoản 5 Điều 41 quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí có trách nhiệm trả lời cơ quan, tổ chức, công dân về việc họp báo trong thời gian quy định tại Khoản 3 Điều này; trường hợp không có văn bản trả lời, tổ chức, công dân được tiến hành họp báo”.
Việc không nêu cụ thể thời gian phải trả lời cơ quan, tổ chức, công dân, mà lại viện dẫn khoản 3 Điều 41 gây khó khăn trong việc công bố và giải quyết thủ tục hành chính, vì theo Điều 8 Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ, thủ tục hành chính phải có quy định về thời hạn giải quyết. Bên cạnh đó, Luật Báo chí năm 2016, tương đối mở đối với việc tổ chức họp báo, nhưng trong thực tế có nhiều cuộc họp báo liên quan đến các vấn đề phức tạp (các dự án, khiếu nại, tố cáo đang trong thời gian cơ quan chức năng thụ lý giải quyết...). Việc quy định mở và không rõ ràng về thời gian giải quyết, trong một số trường hợp đã gây khó khăn, áp lực đối với cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương.
(2) Về xuất bản bản tin:
Tại Điều 34 Luật Báo chí năm 2016 quy định về việc cấp phép xuất bản bản tin. Thực tế công tác cấp phép xuất bản bản tin tại Hà Nội hiện nay, chủ yếu là cấp phép xuất bản bản tin với định dạng là bản giấy. Trong quá trình thực hiện phát sinh một số trường hợp các cơ quan, tổ chức có nhu cầu chuyển sang xuất bản bản tin dưới định dạng là bản tin điện tử; tuy nhiên, Luật Báo chí chưa có quy định về loại hình bản tin điện tử.
(3) Về Thẻ nhà báo:
Khoản 1 Điều 25: “Nhà báo là người hoạt động báo chí được cấp thẻ nhà báo” chưa bao quát hết các đối tượng đang thực hiện nghiệp vụ báo chí trong các cơ quan báo chí, bao gồm những người hoạt động nghiệp vụ dưới 2 năm (chưa đủ điều kiện để cấp thẻ nhà báo).
Điểm C khoản 2 Điều 25 quy định: “Được đến các cơ quan, tổ chức để hoạt động nghiệp vụ báo chí. Khi đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo…”. Quy định này không phù hợp với thực tiễn và mâu thuẫn với quy định tại điểm C Khoản 1 Điều 27: “Đối với trường hợp cấp thẻ lần đầu, phải có thời gian công tác liên tục tại cơ quan báo chí đề nghị cấp thẻ từ 02 năm trở lên tính đến thời điểm xét cấp thẻ,…”
Thực tế hiện nay nhà báo, phóng viên đến các cơ quan, tổ chức để hoạt động nghiệp vụ báo chí ngoài Thẻ nhà báo do Bộ TT&TT cấp, Lãnh đạo các cơ quan báo chí cấp giấy giới thiệu cử phóng viên đi tác nghiệp (đối với trường hợp chưa được cấp thẻ nhà báo), tuy nhiên, việc sử dụng giấy giới thiệu khi tác nghiệp chưa được đưa vào quy định của Luật Báo chí.
(4) Điều kiện thành lập cơ quan báo chí:
Điều 14, Luật Báo chí năm 2016 quy định về đối tượng được thành lập cơ quan báo chí “1. Cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức tôn giáo từ cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên, hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam được thành lập cơ quan báo chí; 2. Cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Luật giáo dục đại học; tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện theo quy định của Luật khoa học và công nghệ; bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên được thành lập tạp chí khoa học.”
Điều 17, Luật Báo chí năm 2016 quy định về điều kiện thành lập cơ quan báo chí, tại Khoản 5 yêu cầu việc thành lập cơ quan báo chí phải “Phù hợp với quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.”
Tuy nhiên, hiện nay giữa Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 (được phê duyệt tại Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày 03/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ) và quy định về đối tượng được thành lập cơ quan báo chí tại Điều 14 Luật Báo chí năm 2016 chưa có sự thống nhất.
(5) Thẩm quyền quản lý nhà nước về báo chí:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 7 Luật Báo chí năm 2016: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương”.
Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản quy định thẩm quyền xử phạt của Sở Thông tin và Truyền thông đối với cơ quan báo chí (trung ương và địa phương).
Tuy nhiên, các quy định nêu trên chưa rõ thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương trong việc thanh tra, kiểm tra đối với cơ quan báo chí Trung ương đóng trên địa bàn.
Cần làm rõ nội hàm “tại địa phương” quy định tại khoản 4 Điều 7 Luật Báo chí có được hiểu là “thuộc địa phương” không?
(6) Tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí:
Tại điểm b khoản 2 Điều 4 quy định về chức năng, quyền hạn của cơ quan báo chí: “Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí…”
Tuy nhiên, Luật Báo chí chưa quy định cụ thể thế nào là tôn chỉ, mục đích dẫn đến việc cơ quan báo chí và cơ quan quản lý nhà nước có thể hiểu theo cách khác nhau, không thống nhất, khó khăn trong công tác quản lý, xử lý vi phạm.
(7) Về cung cấp thông tin cho báo chí:
+ Tại Điều 12 quy định về trách nhiệm của cơ quan báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân:
“1. Đăng, phát kiến nghị, phê bình, tin, bài, ảnh và tác phẩm báo chí khác của công dân phù hợp với tôn chỉ, mục đích…”
2. Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có thẩm quyền trả lời bằng văn bản hoặc trả lời trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến…”
Việc cho phép cơ quan báo chí đăng tải kiến nghị của công dân, trả lời hoặc yêu cầu các cơ quan tổ chức trả lời báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, dẫn đến có tình trạng cơ quan báo chí đăng ý kiến của công dân khi chưa xác minh thông tin, lợi dụng để gửi văn bản gây sức ép đến cơ quan tổ chức yêu cầu giải trình, cung cấp thông tin. Mặc dù cơ quan báo chí không có chức năng giải quyết đơn thư mà phải chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Thông tư số 05/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
Thực tế hiện nay, nhiều cơ quan báo chí (tạp chí) căn cứ vào đơn thư bạn đọc để gửi văn bản, cử phóng viên đến các tỉnh, thành phố yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu để điều tra, xác minh về các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương… gây phiền hà cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và có dấu hiệu vượt quá chức năng của cơ quan báo chí.
+ Tại khoản 4 Điều 38 quy định về cung cấp thông tin cho báo chí: “Cơ quan báo chí và nhà báo có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ người cung cấp thông tin, trừ trường hợp có yêu cầu bằng văn bản của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.”
Trong thực tế, quy định này dẫn đến một số cơ quan báo chí không cung cấp nguồn gốc thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước để xác minh trong quá trình giải quyết đơn thư về nội dung đăng tải trên báo chí.
(8) Về hoạt động liên kết báo chí:
Thời gian qua, một số doanh nghiệp truyền thông có hoạt động liên kết báo chí sản xuất tác phẩm báo chí (liên kết sản xuất chuyên trang báo chí hoặc tham gia thực hiện tác phẩm báo chí). Hoạt động liên kết báo chí được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 31 Luật Báo chí: “Sản xuất các sản phẩm báo in, báo điện tử thuộc các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, thể thao, giải trí, quảng cáo, an sinh xã hội”. Tuy nhiên, do chưa có định nghĩa rõ ràng thế nào là thông tin tuyên truyền “nhiệm vụ chính trị” nên cơ quan quản lý nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý hoạt động liên kết (VD: Trường hợp các đơn vị liên kết sản xuất, đăng tải các nội dung liên quan đến thông tin, hoạt động của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhưng lại đưa vào lĩnh vực an sinh xã hội).
(9) Quy định về báo in, tạp chí in, báo điện tử, tạp chí điện tử
Theo quy định tại khoản 3 và 6 Điều 3 Luật Báo chí, báo in gồm báo in và tạp chí in, báo điện tử gồm báo điện tử và tạp chí điện tử. Đây là vấn đề bất cập, có thể khiến bạn đọc nhầm lẫn về tính chất giữa báo và tạp chí.
Khoản 15 Điều 3 Luật Báo chí quy định: “Tạp chí điện tử là sản phẩm báo chí xuất bản định kỳ, đăng tin, bài có tính chất chuyên ngành, được truyền dẫn trên môi trường mạng”. Quy định này chưa có sự phân biệt và lượng hóa rõ ràng giữa báo điện tử và tạp chí điện tử. Luật Báo chí chưa quy định cụ thể thế nào là định kỳ, xuất bản định kỳ là trong khoảng thời gian bao lâu. Quy định chưa rõ ràng, chưa phân định cụ thể giữa báo và tạp chí, dẫn đến một số cơ quan tạp chí lợi dụng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nói chung của báo chí để hoạt động như cơ quan báo, không phù hợp với tính chất của tạp chí; gây khó khó khăn trong công tác quản lý.
(10) Việc báo điện tử, tạp chí điện tử có hoạt động truyền hình:
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, thông tin và truyền thông, các cơ quan báo chí hướng tới xây dựng mô hình truyền thông đa phương tiện, nhiều báo điện tử và tạp chí điện tử có Chuyên mục Truyền hình hoặc Bản tin Truyền hình, cấp giấy giới thiệu cho phóng viên đi tác nghiệp với chức danh phóng viên truyền hình, tổ chức ghi hình, thực hiện các phóng sự truyền hình để đăng, phát trên các chuyên mục, bản tin này. Tuy nhiên, Luật Báo chí chưa quy định việc báo điện tử, tạp chí điện tử có hoạt động truyền hình, cần sớm bổ sung quy định để quản lý chặt chẽ hoạt động này.
Bên cạnh đó, nhiều trường hợp cá nhân, doanh nghiệp truyền thông tự sản xuất chương trình và tự định danh đó là các chương trình truyền hình cung cấp cho các hạ tầng truyền dẫn nội dung số (youtube, facebook…) nhưng chưa có quy định quản lý loại hình này.
(11) Quy định về tạp chí khoa học:
Khoản 16 Điều 3 và khoản 2 Điều 14 quy định về khái niệm và đối tượng thành lập tạp chí khoa học.
Các tạp chí khoa học hiện chiếm đến 37% tổng số cơ quan báo chí, mang tính đặc thù hơn so với các sản phẩm báo chí thông thường khác với chức năng chính là công bố kết quả nghiên cứu khoa học, thông tin về hoạt động khoa học chuyên ngành. Tuy nhiên, các quy định của Luật Báo chí về tạp chí khoa học còn chưa đầy đủ để tạo cơ sở cho sự phát triển của sản phẩm này; chưa quy định về tiêu chí và điều kiện bảo đảm chất lượng khoa học, chưa quy định trách nhiệm của cơ quan chủ quản trong việc bảo đảm chất lượng khoa học.
Đại bộ phận tạp chí khoa học hoạt động theo cơ chế bao cấp từ cơ quan chủ quản, với nguồn kinh phí được cấp không đáng kể và gần như không có nguồn thu thương mại. Nhiều cơ quan chủ quản của tạp chí khoa học không thành lập cơ quan báo chí mà chỉ huy động nhân sự của các phòng, ban trực thuộc làm kiêm nhiệm công tác xuất bản tạp chí. Nhân sự của các tạp chí này thường là cán bộ nghiên cứu, giảng viên, giáo sư, bác sĩ, chuyên gia có học hàm, học vị khoa học kiêm nhiệm. Đối với các tạp chí khoa học, người đứng đầu đóng vai trò quan trọng, mặc dù đã được ưu tiên hơn về điều kiện xét cấp thẻ nhà báo, nhưng cần có uy tín, chuyên môn sâu để có thể phụ trách, biên tập, duyệt đăng các bài viết có hàm lượng nghiên cứu khoa học cao. Nhiều trường hợp người đứng đầu hoặc dự kiến bổ nhiệm người đứng đầu tạp chí có thể là người có uy tín trong giới nghiên cứu khoa học, nhưng lại không đáp ứng đầy đủ các điều kiện về tiêu chuẩn chính trị hoặc độ tuổi bổ nhiệm lần đầu, gây khó khăn cho công tác tìm kiếm người đứng đầu tạp chí khoa học cũng như khó khăn cho công tác hiệp y bổ nhiệm.
(12) Về trang thông tin điện tử tổng hợp:
Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa có quy định cụ thể thế nào là “trang thông tin điện tử tổng hợp hoạt động như báo chí”, “biểu hiện báo hóa” gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước tại địa phương.
Theo quy định tại Khoản 20 Điều 3 Luật Báo chí: “Trang thông tin điện tử tổng hợp là sản phẩm thông tin có tính chất báo chí của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cung cấp thông tin tổng hợp trên cơ sở đăng đường dẫn truy cập tới nguồn tin báo chí hoặc trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin báo chí theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ”.
Tại Khoản 17 Điều 3 Luật Báo chí quy định: “Sản phẩm thông tin có tính chất báo chí là sản phẩm thông tin được thể hiện bằng các thể loại báo chí, được đăng trên bản tin, đặc san, trang thông tin điện tử tổng hợp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp”.
Việc giải thích từ ngữ như trên, vô hình trung đánh đồng khái niệm “trang thông tin điện tử tổng hợp” như một “thể loại báo chí”, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “trang thông tin điện tử tổng hợp hoạt động như báo chí” thời gian qua.
(13) Về văn phòng đại diện, phóng viên thường trú:
Luật Báo chí 2016 phân cấp cho UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý đối với hoạt động Văn phòng đại diện của cơ quan báo chí tại địa phương (Điều 22). Tuy nhiên, một số văn phòng đại diện chưa nghiêm túc thực hiện việc gửi báo cáo tình hình hoạt động theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương, dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý.
(14) Về loại hình hoạt động và nguồn thu của các cơ quan báo chí:
Khoản 1 Điều 21 Luật Báo chí quy định về loại hình hoạt động và nguồn thu của các cơ quan báo chí: "Cơ quan báo chí hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp có thu". Nghĩa là các cơ quan báo chí sẽ thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập; tuy vậy, hoạt động của các cơ quan báo chí có nhiều tính chất đặc thù nên rất cần thiết phải có các quy định tài chính riêng (VD: Quy định một số các khoản thu nhập của người lao động trong các cơ quan báo chí cần được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp; hoặc tỉ lệ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cần có ưu đãi đối với các cơ quan báo chí).
(15) Luật Báo chí chưa có quy định về điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm và cấp phó của người đứng đầu cơ quan báo chí.
Thực tiễn công tác chỉ đạo, quản lý báo chí cho thấy, cấp phó người đứng đầu cơ quan báo chí là chức vụ lãnh đạo, có vai trò chỉ đạo, điều hành, được người đứng đầu giao phụ trách những mảng công việc quan trọng trong cơ quan báo chí hoặc được uỷ quyền, phân công duyệt đăng tin, bài. Vì vậy, tiêu chuẩn bổ nhiệm cấp phó người đứng đầu cơ quan báo chí cần được quy định rõ ràng, cụ thể, bảo đảm chất lượng đội ngũ lãnh đạo cơ quan báo chí.
Ngoài ra, hiện nay theo Quy định 101-QĐ/TW ngày 28/02/2023 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí có trách nhiệm có ý kiến về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại lãnh đạo cơ quan báo chí (gồm người đứng đầu; người được giao thực hiện nhiệm vụ người đứng đầu; cấp phó của người đứng đầu).
(16) Những khó khăn, vướng mắc, bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo khác
Một số bất cập trong hoạt động của các trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội được cấp phép:
- Hiện nay, trang thông tin điện tử tổng hợp của tổ chức, doanh nghiệp không giới hạn về số lượng nguồn tin miễn là xin được thỏa thuận cho trích dẫn nguồn tin từ cơ quan báo chí; được tùy chọn đăng tải lại những tin, bài từ cơ quan báo chí mà họ thấy phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp, đơn vị mình, mà không buộc phải đăng những tin, bài theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí cho họ dẫn nguồn. Các doanh nghiệp, đơn vị này không có trách nhiệm trong tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị của đất nước và địa phương. Vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trang thông tin điện tử tổng hợp vì lợi ích của mình chỉ tập trung khai thác các tin tiêu cực, mặt trái xã hội… khiến cho bức tranh thông tin trên mạng bị sai lệch, không phản ánh đúng tình hình xã hội của đất nước.
- Các mạng xã hội được cấp phép trong nước, ngoài lợi thế cho phép độc giả tương tác với các nội dung thông tin, các đơn vị cung cấp dịch vụ này còn cố tình xây dựng giao diện của các mạng xã hội giống báo điện tử, gồm các chuyên mục, nội dung, bài viết giống với sản phẩm báo chí, đăng tải nhiều bài thể hiện dưới dạng phóng sự, điều tra; lợi dụng danh nghĩa thành viên đăng tải thông tin để đăng tải thông tin như trang thông tin điện tử tổng hợp hoặc báo điện tử, gồm các chuyên mục, nội dung, bài viết như cơ quan báo chí.
2.2. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
- Cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, nhiều loại hình truyền thông mới ra đời, cách tiếp cận thông tin của độc giả cũng thay đổi đã làm cho Luật Báo chí và các quy định pháp luật liên quan chưa bao quát hết và theo kịp tình hình thực tế. Bên cạnh đó, còn có sự chưa thống nhất giữa Luật Báo chí và các quy định pháp luật liên quan, đặc biệt là Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025.
- Các quy định về cơ chế hỗ trợ, đặt hàng báo chí tuyên truyền nhiệm vụ chính trị chậm được ban hành, còn một số vướng mắc chưa được tháo gỡ triệt để, khó khăn khi áp dụng vào thực tiễn. Bên cạnh đó, chưa có quy định về cơ chế đặt hàng đối với các bài tuyên truyền nhiệm vụ chính trị trên các nền tảng mạng xã hội.
- Vai trò, trách nhiệm của một số cơ quan chủ quản cơ quan báo chí còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan báo chí trực thuộc, việc đầu tư nâng cấp, hiện đại hóa trang thiết bị, điều kiện làm việc, giao nhiệm vụ công tác tuyên truyền… còn hạn chế.
- Việc chấn chỉnh, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí đã được các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở Trung ương và địa phương tăng cường thực hiện nhưng vẫn chưa triệt để, nhất là những sai phạm liên quan việc thực hiện không đúng tôn chỉ, mục đích; thông tin sai sự thật; tình trạng “báo hóa” tạp chí điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội…
3. Kiến nghị
Qua thực tiễn quản lý, Sở Thông tin và Truyền thông nhận thấy việc sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí 2016 cho phù hợp với thực tiễn là cần thiết. Việc sửa đổi, bổ sung Luật báo chí 2016 nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho báo chí hoạt động, phát triển, đồng thời khắc phục những tồn tại, bất cập, bổ sung quy định để điều chỉnh kịp thời những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Đề xuất sớm trình Quốc hội sửa đổi Luật Báo chí 2016 cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí trong tình hình hiện nay, đảm bảo bám sát xu hướng phát triển, bao quát hết thực tế hoạt động báo chí, truyền thông và nhất quán với các quy định pháp luật liên quan.
Xin trân trọng cảm ơn!