Thế giới truyền thông

Nghiên cứu so sánh pháp luật Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam về quyền tự do thông tin báo chí để sửa đổi Luật Báo chí 2016

ThS. NCS. Đỗ Thị Ánh Hồng, Nguyễn Thị Thu Uyên 02/04/2024 11:07

Sự cần thiết của Việt Nam trong việc tăng cường luật pháp và các quy định về quyền tự do thông tin báo chí. Bằng cách học hỏi kinh nghiệm của Hoa Kỳ và Trung Quốc, đồng thời kết hợp các tiêu chuẩn quốc tế, Việt Nam có thể tạo ra một khung pháp lý bảo vệ quyền tự do thông tin báo chí, bảo vệ lợi ích quốc gia và đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc phổ biến thông tin.

1. Mở đầu

Tự do thông tin báo chí là quyền cơ bản của con người, việc đảm bảo quyền này của công dân không những đáp ứng các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết mà còn là các yếu tố hết sức quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của đất nước. Ngoài ra, đây cũng là một trong những cơ sở đảm bảo vai trò giám sát của người dân đối với cán bộ, công chức và các cơ quan quản lý nhà nước, đóng góp vào quá trình phòng chống tham nhũng, tiêu cực [1].

Trung Quốc là quốc gia có nhiều nét tương đồng về văn hóa, pháp luật và quan điểm chính trị. Trong khi đó, Mỹ không có điểm tương đồng với Việt Nam hay Trung Quốc về các tiêu chí nêu trên, những quốc gia này được coi là một trong những quốc gia tiên phong trong việc thực thi quyền được thông tin. Nhưng bên cạnh đó, các văn bản pháp lý của 3 nước có những quan điểm tương đồng với nhau.

Bài viết này đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống nhằm khai thác một số vấn đề lý luận; đánh giá những điểm tương đồng và khác biệt trong quy định pháp luật của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam về quyền tự do thông tin báo chí; từ đó đưa ra các đề xuất sửa đổi quy định pháp luật về quyền tự do thông tin báo chí trong Luật Báo chí 2016.

2. Một số vấn đề lý luận về quyền tự do thông tin báo chí

2.1. Về quyền tự do thông tin

Quyền tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong UDHR và ICCPR. Tại khoản 2 Điều 19 ICCPR khẳng định “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm: quyển này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, định dạng hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia”, đồng thời khoản 3 Điều 19 Công ước này khẳng định: “Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm đòi hỏi đương sự phải có các bổn phận, trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a. Tôn trọng các quyền tự do và thanh danh của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý”.

Điều 19 UDHR khẳng định “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm sự tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp và sự tự do tìm kiếm, tiếp nhận, chia sẻ những ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không có biên giới”. Khoản 2 Điều 29 Tuyên ngôn này cũng khẳng định: “Trong khi thực hiện các quyền và quyền tự do cho cá nhân mọi người chỉ phải tuân thủ các hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận, tôn trọng đối với các quyền và quyền tự do của những người khác, đáp ứng được những đòi hỏi chính đảng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.

Ngoài việc được ghi nhận trong các văn bản pháp lý, khái niệm này cũng được các nhà nghiên cứu, quan tâm. Trong một nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật Hà Nội, Quyền được thông tin được định nghĩa là quyền của cá nhân được tiếp cận thông tin của chính phủ theo quy định của quốc gia. Một nhà nghiên cứu khác cũng nêu ra quan điểm rằng quyền tự do thông tin là quyền của mọi công dân được đọc, nhìn, nghe, ghi chú, sao chép, chụp ảnh có hoặc không có điều kiện đối với mọi thông tin do cơ quan Nhà nước đưa ra, trừ những thông tin không thể tiếp cận được. Cả hai định nghĩa đã phản ánh một phần quyền, đó là quyền tìm kiếm và quyền tiếp nhận thông tin.

Từ những quan điểm trên có thể kết luận rằng, quyền tự do thông tin là quyền được tìm kiếm, tiếp cận thông tin và phổ biến thông tin đó, nhưng chỉ áp dụng đối với những thông tin thuộc phạm vi thông tin được tiếp cận.

2.2. Về quyền tự do báo chí

Trước hết, tự do báo chí là một trong những quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận. Tự do báo chí chính là sự bảo đảm đầy đủ quyền thu nhận, trao đổi, truyền bá thông tin, quyền bày tỏ nguyện vọng, ý chí một cách dân chủ của mọi thành viên trong xã hội. Xem xét ở góc độ quyền tự do cá nhân của con người, tự do báo chí là một mục tiêu phấn đấu để mọi thành viên trong xã hội có điều kiện thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu viết báo, đọc báo, mua báo, tức là sự dùng các phương tiện thông tin đại chúng một cách tự do nhất, được luật pháp và dư luận xã hội bảo đảm. Trên bình diện xã hội, tự do báo chí là nguyện vọng, ước mơ, mục tiêu đấu tranh của con người qua các chế độ xã hội.

Tự do báo chí là mục tiêu phấn đấu của con người nhằm giành cho mình được quyền thông tin, trao đổi, giao tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của con người một cách công khai qua các phương tiện thông tin đại chính không bị lệ thuộc hay hạn chế. Theo PGS.TS. Phạm Thành Hưng, “Tự do báo chí là một trong những điều kiện thiết yếu để thực hiện chức năng xã hội cơ bản của truyền thông. Hoạt động báo chí có tự do là hoạt động bất chấp những tác động lung lạc bên ngoài báo chí, nhằm hưởng tới mục tiêu cao nhất là thông tin khách quan và rộng rãi cho xã hội về sự thật đời sống con người, trên tinh thần phụng sự cho hạnh phúc dân tộc và nhân loại. Tự do báo chí là bộ phận cấu thành tự do tư tưởng - ngôn luận và là thành phần quan trọng biểu hiện quyền con người cơ bản vốn đã được khẳng định không chỉ trong Hiến chương tổng hợp về quyền con người của Liên hợp quốc mà cả trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[2].Tự do báo chí là một khái niệm mang tính lịch sử, được thực hiện và lý giải trong những hoàn cảnh cụ thể, gắn liền với điều kiện xã hội lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc, trong đó trước hết phải gắn liền với luật pháp mỗi quốc gia[3].

Theo GS. Jane Kirley (Trung tâm Silha về Đạo đức truyền thông và luật tại Trường Báo chí và truyền thông đại chúng thuộc đại học Minnesota), để có tự do báo chí phải có ba yếu tố cơ bản là:

Thứ nhất, một nền báo chí tự do và độc lập là điều thiết yếu của bất kỳ xã hội tự do nào. Nghĩa là, một nền báo chí không phải chịu sự kiểm soát và quy định không phù hợp của chính phủ, một nền báo chí không chịu ảnh hưởng tài chính từ khu vực tư nhân, trong đó có các công ty quảng cáo, hay những áp lực kinh tế và kinh doanh từ các công ty tư nhân. Một nền báo chí tự do và độc lập phải đem đến cho độc giả, khán giả và thính giả những thông tin mà họ cần để có thể tham gia đầy đủ với tư cách là công dân của một xã hội tự do.

Thứ hai, một nền báo chí tự do phải là nền báo chí dũng cảm và sẽ đưa tin về những câu chuyện quan trọng đối với độc giả và khán giả mà không phải sợ sệt điều gì hay không thiên vị một bên nào. Nền báo chí đó sẽ thách thức các giả định, sẽ nghi vấn nhà chức trách, và sẽ chỉ biết đi tìm sự thật, cho dù sự tìm kiếm đó sẽ dẫn đến đâu - có thể đến tận những nơi quyền lực to nhất, đến tận những người sở hữu những cơ quan báo chí và ngay cả khi điều đó dẫn đến cái chết.

Thứ ba, một nền báo chí tự do phải là một nền báo chí có trách nhiệm. Quan điểm về trách nhiệm khác nhau ở từng nước, thậm chí là khác nhau theo từng năm. Đối với nhiều người, chuẩn mực trong thời bình và ổn định có thể rất khác với chuẩn mực trong thời chiến hay lúc quốc gia nguy cấp. Tuy nhiên, một số nguyên tắc căn bản vẫn không hề thay đổi. Một nền báo chí tự do phải biết đi tìm sự thật và phải đưa tin về điều đó. Nền báo chí đó sẽ không biết mệt mỏi trong việc tìm kiếm và đạt đến tính chính xác. Báo chí không bao giờ được phép đưa tin sai sự thật trong khi biết rõ điều đó.

Từ những phân tích trên đây, có đưa ra khái niệm về quyền tự do báo chí như sau: Quyền tự do báo chí là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và bảo vệ, thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thể hiện ý kiến, quan điểm, tình cảm của mình trước các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Như vậy, quyền tự do thông tin báo chí là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ và quy định phạm vi tiếp cận, tìm kiếm, tiếp cận thông tin và thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thể hiện ý kiến, quan điểm, tình cảm của mình trước các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

3. Quyền tự do thông tin tại Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam

3.1. Quyền tự do thông tin báo chí tại Hoa Kỳ

Đạo luật về Tự do thông tin (Freedom of Information Act - FOIA) của Hoa Kỳ sử dụng từ “record” để chỉ thông tin. Đạo luật này quy định thông tin bao gồm “bất kỳ thông tin nào có thể lưu trữ được theo yêu cầu của phần này và được lưu trữ bởi một cơ quan hoặc tổ chức ở bất kỳ định dạng nào, bao gồm một định dạng điện tử”. Nó cũng sẽ được coi là “record” nếu thông tin đó được lưu giữ bởi một thực thể quy định bởi Hợp đồng Chính phủ[4].

Về thông tin không thể truy cập, FOIA quy định trong tiểu mục b như sau:

(1) thông tin được phép đặc biệt giữ bí mật vì lợi ích quốc phòng hoặc chính sách đối ngoại, và được phân loại phù hợp theo sắc lệnh Hành pháp;

(2) các quy tắc và thông lệ nhân sự nội bộ của một cơ quan;

(3) thông tin được miễn tiết lộ theo quy định, yêu cầu không tiết lộ mà không có quyết định riêng hoặc thiết lập các tiêu chí hoặc loại vấn đề cụ thể cần được giữ lại;

(4) bí mật thương mại và thông tin tài chính hoặc thương mại bí mật;

(5) bản ghi nhớ hoặc thư từ trao đổi giữa các cơ quan không thể truy cập được trong vụ kiện tụng với cơ quan đó;

(6) hồ sơ nhân sự và y tế xâm phạm quyền riêng tư cá nhân một cách bất hợp lý; hoặc gây nguy hiểm cho cuộc sống hoặc sự an toàn của ai đó;

(8) các báo cáo kiểm tra, điều hành hoặc tình trạng liên quan đến quy định hoặc giám sát của tổ chức tài chính;

(9) thông tin địa chất và địa vật lý về giếng, bao gồm cả bản đồ.

Danh sách này được Đạo luật xác nhận là danh sách đầy đủ , nghĩa là không có bất kỳ trường hợp miễn trừ nào khác ngoài những trường hợp được đề cập trong tiểu mục b[5].

Thực thể có trách nhiệm duy trì việc thực thi quyền, được pháp luật gọi là “agency” (cơ quan), được giải thích trong tiểu mục (f)(1): “cơ quan” như được định nghĩa trong mục 551(1) của tiêu đề này bao gồm bất kỳ cơ quan điều hành, cơ quân quân đội, công ty Chính phủ, công ty do Chính phủ kiểm soát hoặc cơ sở khác trong nhánh hành pháp của Chính phủ (bao gồm cả Văn phòng Điều hành của Tổng thống), hoặc bất kỳ cơ quan quản lý độc lập nào;

Điều này cho thấy rằng, tất cả các thực thể được đề cập ở trên có trách nhiệm tiết lộ hoặc không tiết lộ thông tin theo quy định của Đạo luật.

Về thông tin được cung cấp theo yêu cầu, FOIA quy định trong tiểu mục a, Điều 3(A) như sau:

Trong FOIA, có một phần được gọi là tiểu mục a, Điều 3(A), nói rằng các cơ quan nên cung cấp hồ sơ cho bất kỳ người nào yêu cầu. Miễn là yêu cầu mô tả hồ sơ một cách hợp lý và tuân theo các quy tắc đã công bố của cơ quan về thời gian, địa điểm, lệ phí và thủ tục, cơ quan phải nhanh chóng cung cấp hồ sơ, ngoại trừ một số hồ sơ được đề cập trong đoạn (1) và (2) trừ khi thông tin này thuộc một trong những trường hợp ngoại lệ được đề cập trong tiểu đoạn (E).

Điều này chỉ ra rằng, ngoại trừ thông tin được công bố bắt buộc và thông tin được đề cập trong tiểu mục b và tiểu mục c, bất kỳ người nào cũng có thể truy cập vào bất kỳ thông tin nào thuộc sở hữu của cơ quan mà họ yêu cầu, miễn là họ mô tả thông tin đó một cách hợp lý và tuân theo các quy tắc được hướng dẫn.

Về quyền được tìm kiếm thông tin, Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất trong 3 quốc gia cho phép người không phải là công dân yêu cầu cung cấp thông tin của chính phủ. Hơn nữa, thông tin của chính phủ không chỉ bao gồm thông tin được tiết lộ theo yêu cầu mà còn bao gồm thông tin phải được tiết lộ theo luật. Tất cả 3 tài liệu yêu cầu xuất bản đối với loại thông tin này: Tiểu mục (a), Điều 2 của FOIA chỉ ra rằng, các loại thông tin được đề cập trong tiểu mục đó sẽ được xuất bản.

Về quyền được tiếp nhận thông tin, Điều 3(B), tiểu mục (a) của FOIA đã chỉ ra rằng, ngoài việc cung cấp thông tin, các cơ quan cũng nên cung cấp thông tin đó theo cách có lợi cho người yêu cầu: Khi cung cấp thông tin cho ai đó, cơ quan phải cung cấp hồ sơ theo mẫu hoặc định dạng được yêu cầu nếu có thể sao chép dễ dàng theo cách đó. Cơ quan nên cố gắng hết sức để lưu giữ thông tin ở định dạng có thể sao chép dễ dàng theo yêu cầu của quy tắc này.

Về quyền truyền đạt thông tin, FOIA không cấm cá nhân, tổ chức truyền đạt thông tin. Tuy nhiên, điều này không bao gồm những người làm việc cho chính phủ phát tán thông tin không thể truy cập hoặc bất kỳ trường hợp tiết lộ thông tin bất hợp pháp nào.

Về quyền tự do báo chí, Tu chính án thứ nhất trong Hiến pháp Mỹ quy định: “Quốc hội không thể ban hành luật thành lập tôn giáo hoặc hạn chế tự do thực hành tôn giáo, hạn chế tự do ngôn luận hoặc báo chí, hoặc ngăn cản hội họp ôn hòa và kiến nghị chính phủ về những bất bình”.

Quyền tự do báo chí không buộc chính phủ phải cung cấp thông tin hoặc quyền truy cập mà công chúng không được tiếp cận. Ở nhiều khía cạnh, báo chí không nên được đối xử đặc biệt ngoài những gì người khác nhận được. Tuy nhiên, với vai trò của mình trong việc chia sẻ tin tức và thông tin, báo chí có thể được hưởng một số sự tôn trọng hoặc cân nhắc nhất định.

Tuy nhiên, các nhà báo hoạt động nghề nghiệp phải tuân theo quy tắc báo chí (do Hội các Chủ bút nước Mỹ quy định) và Quy tắc về Vô tuyến truyền hình (thông qua từ ngày 9-6-1958). Quy tắc Báo chí Mỹ thể hiện “lý thuyết trách nhiệm xã hội của báo chí” gồm 7 yêu cầu hoạt động nghề nghiệp là: 1. Trách nhiệm; 2. Tự do báo chí; 3. Sự độc lập: 4. Lòng thành, sự xác thực, đúng đắn; 5. Sự vô tư: 6. Sự bảo đảm tôn trọng thành danh; 7. Giữ thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ có tiểu ban về thông tin của Hạ viện để phân tích và kiểm tra các thông tin báo chí trong thời gian có các cuộc khủng hoảng, Ủy ban Liên bang về thông tin của Mỹ có chức năng không chỉ thuần túy điều phối về kỹ thuật. Nó được quyền 3 năm một lần cấp giấy phép hoạt động cho các đài phát thanh và truyền hình dựa trên những đánh giá về hoạt động của các đài này[6].

Năm 1917, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật về tội do thám và năm sau là đạo luật về tội bạo động. Theo các luật này, người bị coi là tội phạm nếu có ý thức viết và truyền đi “các phóng sự và ý kiến không đúng”, “cản trở hoạt động của các lực lượng vũ trang hoặc hỗ trợ của đối phương”. Theo Đạo luật về an ninh đối nội được thông qua năm 1959, Thượng viện Mỹ đã thành lập Ủy ban McCarthy - một cơ quan điều tra các hoạt động bị coi là chống đối chính quyền Mỹ, trong đó có thông tin trên báo chí. Năm 1953, Bộ luật Hình sự của Mỹ được bổ sung thêm điều cho phép xét xử việc đăng các tài liệu mà chính phủ cho là bí mật. Song song với đó, liên quan đến nhân thân con người, nước Mỹ cũng rất thận trọng cho phép công bố khi biết “quảng cáo lừa bịp”, “làm giả hàng hóa”, “không có khả năng thanh toán những cam kết tài chính” vào những loại thông tin bị đánh giá là phi bảng. Tại Mỹ, ngành bưu điện cũng có thẩm quyền nhỏ trong việc quyết định lưu hành báo chí đến công chúng khi năm 1918, Quốc hội Mỹ đã thông qua đạo luật cấm phổ biến bất kỳ loại ấn phẩm nào phê phán hình thức lãnh đạo của nước Mỹ cho phép bưu điện có thẩm quyền này.

3.2. Quyền tự do thông tin báo chí ở Trung Quốc

Đạo luật Mở về Thông tin (Open Government Information Regulations - OGI) không có định nghĩa về thông tin, tuy nhiên, Điều 2 của đạo luật này đã đề cập đến thuật ngữ “thông tin chính phủ” - đối tượng của OGI. Thông tin chính phủ, theo OGI được định nghĩa là: “thông tin được tạo ra hoặc thu thập bởi các cơ quan hành chính trong quá trình thực hiện các chức năng hành chính và được ghi lại và lưu giữ dưới một hình thức nhất định”. Mặc dù cách lựa chọn từ ngữ khác với các văn bản pháp luật của các quốc gia khác, nhưng ý định của các nhà lập pháp Trung Quốc cũng giống như các Quốc gia khác.

OGI của Trung Quốc, được sửa đổi vào năm 2019, đã đưa ra một danh sách ngắn gọn về các loại thông tin không được tiết lộ: bí mật nhà nước, thông tin bị cấm tiết lộ theo quy định khác hoặc thông tin có thể gây hại cho an ninh, an ninh công cộng, an ninh kinh tế hoặc ổn định xã hội. Quy định cũng đặt ra các trường hợp khi thông tin có thể bị thu hồi, chẳng hạn như các vấn đề nội bộ của các cơ quan hành chính như quản lý nhân sự, hậu cần và quy trình làm việc. Nó cũng bao gồm các biên bản thảo luận, dự thảo, thư tư vấn, yêu cầu hướng dẫn và hồ sơ vụ việc thực thi pháp luật hành chính. Tuy nhiên, nếu luật pháp, quy định hoặc quy tắc yêu cầu tiết lộ thông tin này thì phải tuân theo.

Phạm vi thông tin được chủ động công khai trong OGI được nêu tại Điều 19, bao gồm các thông tin: “liên quan đến việc điều chỉnh lợi ích công cộng, cần được công chúng biết đến rộng rãi hoặc yêu cầu công chúng tham gia vào quá trình ra quyết định.” Ngoài quy tắc này, OGI cũng liệt kê một số thông tin cũng phải được tiết lộ:

  • Quy định hành chính, quy tắc và văn bản quy phạm.
  • Chức năng cơ quan, cấu trúc, chi tiết văn phòng, thông tin liên lạc và tên của người chịu trách nhiệm.
  • Kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội quốc gia, kế hoạch đặc biệt, kế hoạch vùng và các chính sách liên quan.
  • Thông tin thống kê về phát triển kinh tế và xã hội quốc gia.
  • Các thủ tục, yêu cầu và kết quả của việc cấp phép hành chính và các dịch vụ quản lý bên ngoài khác.
  • Thủ tục, yêu cầu và việc thực hiện xử phạt và cưỡng chế hành chính, kể cả các quyết định xử phạt hành chính quan trọng.
  • Ngân sách tài chính và thông tin tài khoản cuối cùng.
  • Phí hành chính và cơ sở và tiêu chuẩn của họ.
  • Danh mục, tiêu chuẩn và triển khai các dự án mua sắm tập trung của chính phủ.
  • Phê duyệt và triển khai các dự án xây dựng lớn.
  • Các chính sách, biện pháp và việc thực hiện liên quan đến xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, an sinh xã hội và thúc đẩy việc làm.
  • Kế hoạch dự phòng, cảnh báo sớm và ứng phó với các trường hợp khẩn cấp công cộng.
  • Giám sát, kiểm tra về bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng, an toàn sản xuất, an toàn thực phẩm, dược phẩm và chất lượng sản phẩm.
  • Vị trí tuyển dụng công chức, chỉ tiêu, điều kiện dự tuyển và các vấn đề liên quan.
  • Thông tin khác của chính phủ cần được chủ động tiết lộ theo yêu cầu của luật pháp, quy định, quy tắc và các quy định liên quan của tiểu bang.

Quy định cũng nêu rõ rằng các Điều khoản này không phải là những hạn chế duy nhất đối với việc chủ động công bố thông tin và các cơ quan hành chính được giao nhiệm vụ “xác định nội dung cụ thể của việc chủ động công khai thông tin của Chính phủ và không ngừng nâng cao nội dung chủ động công khai theo sự triển khai của các cơ quan hành chính cấp trên”.

OGI không có điều khoản cụ thể liệt kê các thông tin sẽ được tiết lộ theo yêu cầu. Tuy nhiên, có thể suy ra từ cách diễn đạt của Điều 13 rằng thông tin của chính phủ nói chung nên được tiết lộ, ngoại trừ các trường hợp được đề cập trong Điều 14, 15 và 16.

Việc tiết lộ thông tin của chính phủ bởi các cơ quan hành chính có thể được thực hiện chủ động hoặc theo yêu cầu. Các giới hạn cho việc chủ động tiết lộ thông tin được nêu trong Điều 20 và 21. Do đó, có thể kết luận rằng, ngoài thông tin được quy định trong các điều khoản đó, tất cả các thông tin khác của chính phủ nên được tiết lộ khi có yêu cầu thích hợp.

OGI chỉ định các chủ thể cụ thể chịu trách nhiệm thực hiện quyền này. Chính quyền nhân dân các cấp được yêu cầu tổ chức và lãnh đạo các nỗ lực công bố thông tin của chính phủ. Văn phòng Tổng hợp của Hội đồng Nhà nước giám sát việc tiết lộ thông tin của chính phủ quốc gia, cung cấp hướng dẫn, điều phối và giám sát. Tương tự như vậy, các văn phòng chính quyền địa phương từ cấp quận trở lên chịu trách nhiệm thúc đẩy, hướng dẫn, điều phối và giám sát việc công bố thông tin của chính phủ trong khu vực hành chính của họ. Các văn phòng ban ngành chịu trách nhiệm lãnh đạo theo ngành dọc cũng xử lý việc tiết lộ thông tin của chính phủ trong các hệ thống tương ứng của họ.

Ngoài việc quy định cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm công bố thông tin, quy định nêu rõ trách nhiệm của từng cấp chính quyền nhân dân.

Về quyền được tìm kiếm thông tin, Điều 23 của OGI cũng quy định việc công bố các thông tin như sau: Các cơ quan hành chính phải tạo ra các hệ thống để chia sẻ thông tin của chính phủ dễ dàng truy cập. Họ nên chủ động công bố thông tin này qua nhiều kênh khác nhau như bản tin của chính phủ, trang web chính thức, họp báo, báo chí, đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác liên quan đến công việc của chính phủ.

Về quyền được tiếp nhận thông tin, Điều 40 của OGI quy định: Khi có người yêu cầu thông tin của chính phủ, cơ quan hành chính sẽ quyết định cách thức cung cấp thông tin đó dựa trên yêu cầu của người nộp đơn và tình hình bảo quản thông tin. Nếu việc cung cấp thông tin ở định dạng được yêu cầu có thể gây nguy hiểm cho tính bảo mật của nó hoặc quá tốn kém, thì thông tin đó có thể được cung cấp dưới dạng dữ liệu điện tử hoặc ở các định dạng phù hợp khác. Ngoài ra, có thể sắp xếp để người nộp đơn truy cập và sao chép các thông tin liên quan của chính phủ.

Về quyền truyền đạt thông tin, OGI không cấm cá nhân, tổ chức truyền đạt thông tin. Tuy nhiên, điều này không bao gồm những người làm việc cho chính phủ phát tán thông tin không thể truy cập hoặc bất kỳ trường hợp tiết lộ thông tin bất hợp pháp nào.

Về quyền tự do báo chí, Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đảm bảo “quyền tự do ngôn luận (và) báo chí” nhưng chế độ này thường xuyên xung đột quyền tự do thông tin. Điều 35 của Hiến pháp đảm bảo các quyền tự do ngôn luận, hội họp, lập hội và xuất bản, nhưng các quyền đó phụ thuộc vào quyết định của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hơn nữa, trong hầu hết các trường hợp, hiến pháp không thể được viện dẫn tại tòa án như một cơ sở pháp lý để khẳng định các quyền cá nhân. Các thẩm phán do Đảng Cộng sản Trung Quốc bổ nhiệm và thường tuân theo các chỉ thị của Đảng, đặc biệt là trong các vụ án nhạy cảm về chính trị.

Ngoài ra, Điều 51 của Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cấm một số hoạt động mang tính tự do báo chí vì lợi ích quốc gia. Các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc như đài phát thanh và truyền hình thuộc phạm vi điều chỉnh Điều 25, khiến cho các vở kịch, tin tức và các hình thức thông tin khác không đạt được yếu tố tự do báo chí. Điều luật này, theo Quy định về Quản lý Xuất bản, nhằm ngăn chặn việc truyền tải những nội dung gây rủi ro cho chủ quyền và lợi ích công cộng.

Không có luật báo chí nào điều chỉnh việc bảo vệ các nhà báo hoặc trừng phạt những kẻ tấn công họ. Thay vào đó, các điều khoản mơ hồ trong luật hình sự và luật bí mật nhà nước thường được áp dụng. Các điều khoản hình sự về tội phỉ báng và các diễn giải tư pháp không chính thức - bao gồm các hướng dẫn năm 2013 liên quan đến “tin đồn trực tuyến” - đôi khi được áp dụng. Kể từ năm 2015, một số luật hoặc sửa đổi mới đã được thông qua nhằm hệ thống hóa các biện pháp kiểm soát truyền thông, cho phép giám sát nhiều hơn và tăng hình phạt đối với biểu tình chính trị hoặc tôn giáo.

Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính phủ điều chỉnh và hạn chế lĩnh vực truyền thông thông qua các cơ quan như Ban Tuyên giáo Trung ương (Central Propaganda Department - CPD) và Cục Quản lý nhà nước về Báo chí, Xuất bản, Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình (State Administration of Press, Publication, Radio, Film, and Television - SAPPRFT). Là một cơ quan của Đảng, CPD đảm bảo rằng nội dung truyền thông nhất quán với các mục tiêu của đảng, đưa ra các chỉ thị gần như hàng ngày cho các hãng tin và quản trị viên trang web. SAPPRFT, được tổ chức dưới sự quản lý của Hội đồng Nhà nước, có thẩm quyền pháp lý đối với quy định về truyền thông, bao gồm nội dung và cấu trúc của bối cảnh thông tin. Các quyết định quản lý thường tùy tiện và không rõ ràng, rất ít nếu có bất kỳ cơ hội nào để các doanh nghiệp bị ảnh hưởng khiếu nại.

SAPPRFT cho biết rằng, vào tháng 3 năm 2016, nội dung của các chương trình truyền hình trực tuyến sẽ được tuân theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt giống như áp dụng cho truyền hình truyền thống. Cũng trong tháng đó, cơ quan quản lý và Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin đã đưa ra các quy định mới yêu cầu các công ty nước ngoài phải được chính phủ chấp thuận để xuất bản nội dung trực tuyến, chẳng hạn như văn bản, bản đồ, trò chơi, hoạt hình, âm thanh và video. Vào tháng 7, SAPPRFT đã đặt thêm các hạn chế đối với nội dung nước ngoài trong các dịch vụ video trực tuyến, thắt chặt các giới hạn được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2014.

Các nhà báo và nhân viên truyền thông khác được pháp luật yêu cầu phải có thẻ báo chí do chính phủ cấp, mặc dù một số báo cáo không có. Những người vi phạm các hạn chế về nội dung có nguy cơ bị trì hoãn hoặc từ chối gia hạn thẻ báo chí, bị đưa thẳng vào danh sách đen, bị sa thải hoặc đối mặt với các cáo buộc hình sự.

Năm 2015, các cơ quan quản lý lần đầu tiên cấp thẻ báo chí cho các phóng viên tin tức trực tuyến, cho phép họ thực hiện các cuộc phỏng vấn và đưa tin trực tiếp, thay vì chỉ đăng lại các báo cáo của phương tiện truyền thống. Tuy nhiên, các giấy phép được cấp đã được phân phối theo cách phân biệt đối xử, chỉ các phóng viên từ các trang web của đảng hoặc chính phủ mới được công nhận, trong khi nhân viên từ các cổng thương mại lớn như Sina và Sohu bị loại trừ.

3.3. Quyền tự do thông tin báo chí ở Việt Nam

Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam đưa ra hai định nghĩa: Định nghĩa về thông tin và định nghĩa về Thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra:

  • Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra.
  • Thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra là tin, dữ liệu được tạo ra trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản.

Thông tin công dân được tiếp cận là tất cả thông tin của cơ quan nhà nước theo quy định của Luật, trừ thông tin công dân không được tiếp cận quy định tại Điều 6 và được tiếp cận có điều kiện đối với thông tin quy định tại Điều 7 của Luật Tiếp cận thông tin. Những loại thông tin dưới dây công dân được tiếp cận có điều kiện:

- Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận trong trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý.

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.

Tuy nhiên, không phải mọi thông tin có đặc điểm như trên được coi là thông tin bí mật kinh doanh được bảo hộ. Thông tin bí mật kinh doanh chỉ được bảo hộ nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:

+ Thông tin đó không phải là hiểu biết, kiến thức thông thường;

+ Thông tin đó có khả năng được áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó lợi thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng nó;

+ Thông tin đó phải được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

Các thông tin bí mật như bí mật về nhân thân, bí mật nhà nước; bí mật về quốc phòng, an ninh hay thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh thì không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh.

Việc tiếp cận thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh tạo ra nguy cơ bị tiết lộ cho người khác, do vậy, cần phải được sự đồng ý của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó, trừ trường hợp cung cấp thông tin thuộc bí mật kinh doanh vì lợi ích công cộng, sức khỏe cộng đồng.

- Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý; thông tin liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý.

Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân thông thường được hiểu là các thông tin, dữ liệu liên quan đến chính bản thân họ về đời sống cá nhân và tình trạng sức khỏe của họ.

Thực tiễn khoa học pháp lý cũng như thi hành pháp luật ở nước ta cũng chưa có sự thống nhất về khái niệm thông tin bí mật đời tư, bí mật cá nhân. Từ quy định của một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cho phép hiểu thông tin bí mật đời tư là những thông tin có liên quan đến cuộc sống của một cá nhân nhất định mà cá nhân đó thấy rằng, cần thiết và mong muốn giữ bí mật, còn bí mật cá nhân là thông tin liên quan đến bản thân mà cá nhân đó không cho ai biết và luôn muốn giữ bí mật; bí mật gia đình là những thông tin liên quan đến một gia đình mà các thành viên trong gia đình không muốn tiết lộ cho người khác ngoài phạm vi gia đình.

Thông tin công dân không được tiếp cận bao gồm:

- Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật.

Đối với thông tin thuộc những loại trên, công dân không được tiếp cận, theo đó, cơ quan nhà nước không công khai thông tin để công dân tiếp cận hoặc nếu công dân yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin thì yêu cầu của công dân sẽ bị từ chối.

- Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ.

Trong trường hợp này, công dân không được tiếp cận thông tin nếu cơ quan nhà nước qua phân tích, đánh giá cho thấy, việc cung cấp thông tin là có hại đối với các lợi ích hợp pháp mà Nhà nước và pháp luật bảo vệ.

Về quyền được tìm kiếm thông tin, Luật tiếp cận thông tin cũng quy định các hình thức bắt buộc đối với việc công khai thông tin, bao gồm:

“a) Đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước;

b) Công khai trên phương tiện thông tin đại chúng;

c) Đăng Công báo;

d) Niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước và các địa điểm khác;

đ) Thông qua việc tiếp công dân, họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật;

e) Các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin xác định”.

Về quyền tiếp cận thông tin, Điều 25 của Luật tiếp cận thông tin quy định các hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu:

“1. Việc cung cấp thông tin theo yêu cầu được thực hiện bằng một trong các hình thức sau đây:

a) Trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông tin;

b) Qua mạng điện tử, dịch vụ bưu chính, fax.

2. Cơ quan nhà nước được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin theo hình thức mà người yêu cầu đề nghị phù hợp với tính chất của thông tin được yêu cầu cung cấp và khả năng của cơ quan, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Về quyền được truyền đạt thông tin, Luật tiếp cận thông tin không cấm cá nhân, tổ chức truyền đạt thông tin. Tuy nhiên, điều này không bao gồm những người làm việc cho chính phủ phát tán thông tin không thể truy cập hoặc bất kỳ trường hợp tiết lộ thông tin bất hợp pháp nào.

Về quyền tự do báo chí, Tiếp tục kế thừa và phát triển quy định của các Hiến pháp về quyền tự do báo chí của công dân, Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Việc thực hiện (các) quyền này do pháp luật quy định”.

Như vậy, ứng với điều kiện, hoàn cảnh của từng thời kỳ lịch sử, các bản Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 đều khẳng định quyền tự do báo chí của công dân, và thống nhất nguyên tắc coi thực hiện quyền tự do báo chí phải do pháp luật quy định, và phải tuân thủ những hạn chế do luật định, có thể bị giới hạn bởi pháp luật. Quyền tự do báo chí là quyền hiến định, và phải xây dựng, ban hành các điều luật bảo đảm quyền tự do báo chí được thực hiện một cách dân chủ, phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển xã hội.[7]

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền tự do báo chí của công dân, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Báo chí 2016 (có hiệu lực từ 01/01/2017). Luật Báo chí 2016 có 6 chương, 61 điều, trong đó có 32 điều xây dựng mới, 29 điều sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Báo chí 1989 sửa đổi, bổ sung năm 1999. So với Luật Báo chí trước đây, Luật Báo chí 2016 có nhiều điểm mới, trong đó, việc khẳng định quyền tự do báo chí. Đây là một điểm mới, một bước tiến quan trọng để luật hóa quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí, từ đó xác lập nội dung luật pháp tương ứng nhằm tạo điều kiện, vừa đảm bảo quyền tự do báo chí được tổ chức, quản lý một cách dân chủ, công bằng, văn minh, phù hợp với yêu cầu của tiến trình xây dựng, phát triển đất nước. Luật Báo chí 2016 đã tạo ra khung pháp lý rộng nhưng nghiêm khắc, bảo đảm công dân thực hiện quyền tự do báo chí, để các cơ quan báo chí và nhà báo có thể tự do tác nghiệp trong khuôn khổ luật định. Điều này khẳng định pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với trình độ phát triển của thế giới hiện đại. Đây cũng là cơ sở để bác bỏ luận điệu mà các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí vẫn thường sử dụng để vu cáo, vu khống, bịa đặt về vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam.

4. Những điểm tương đồng và khác biệt

Về thông tin hạn chế tiếp cận, pháp luật của cả ba quốc gia có một số quy định tương tự trong thông tin không thể truy cập. Thông tin mật; quy định cấm tiết lộ của các văn bản pháp luật khác; và các vấn đề có thể gây tổn hại đến an ninh quốc gia và lĩnh vực khác, tính mạng con người, cũng như các khía cạnh khác của xã hội đều được 3 quốc gia miễn tiết lộ. Điều này được nêu trong tiểu mục b, Điều 1, 3 và 7F của FOIA, Điều 14 của OGI và Điều 6 của Luật Tiếp cận Thông tin.

FOIA có sự khác biệt nổi bật về mặt quy định so với OGI và Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam. Điều này có thể được giải thích là do sự khác biệt trong phạm vi thông tin được điều chỉnh như đã thảo luận ở trên. Mặc dù, các quy định của Việt Nam và Trung Quốc chỉ cung cấp thông tin do Nhà nước sản xuất hoặc thông tin hỗ trợ chức năng hành chính của mình, nhưng các loại thông tin thuộc thẩm quyền của FOIA lại đa dạng hơn. Cụ thể hơn, “bất kỳ thông tin nào sẽ là hồ sơ của cơ quan tuân theo các yêu cầu của phần này khi được cơ quan lưu giữ ở bất kỳ định dạng nào, kể cả định dạng điện tử”. Do đó, nhiều phần của tiểu mục b là các vấn đề liên quan đến thông tin cá nhân và các vấn đề nội bộ của các cơ quan.

Quy định của Việt Nam về phần này có chút khác biệt so với hai phần còn lại. Vì luật được soạn thảo gần đây nhất trong 3 nước nên đây có thể là kết quả của việc ghép pháp luật từ các tiêu chuẩn quốc tế và các quốc gia khác, đặc biệt là những quốc gia có nền tảng hoặc quan điểm quen thuộc.

Về thông tin được tiếp cận, từ các điều khoản quy định về vấn đề này trong các văn bản pháp luật của cả 3 quốc gia có thể thấy rằng, mỗi quốc gia đều có quan điểm riêng. Bên cạnh những thông tin đưa vào luật, Trung Quốc và Việt Nam cũng thúc đẩy việc tự nguyện công bố thông tin trong các cơ quan nhà nước. Qua đó cho thấy, bên cạnh những thông tin phải công khai theo quy định của pháp luật, các cơ quan nhà nước cũng cần quan tâm đến nhu cầu thực tế của người dân và cần tích cực hơn nữa trong quá trình cung cấp thông tin cho người dân.

Các quốc gia này có quan điểm khác nhau về việc ai có thể thực hiện quyền thông tin trong nước. Mọi người, kể cả những công dân không phải là công dân Hoa Kỳ không sống ở quốc gia này đều có thể truy cập thông tin mà Hoa Kỳ sở hữu. Trung Quốc có phạm vi hạn chế hơn, chỉ cấp quyền cho công dân, pháp nhân và các tổ chức khác, còn Việt Nam chỉ cấp cho công dân. Trong khi đó, quy định về người cung cấp thông tin ở cả ba văn bản lại khá giống nhau.

Về quyền được tiếp cận thông tin, Thông qua các quy tắc này, các Quốc gia đã thể hiện nỗ lực của mình trong việc đảm bảo quyền được thông tin không chỉ cho công dân của mình mà còn cho cả những người không phải là công dân ở một mức độ nhất định. Về phương pháp xuất bản được đề cập trong thư của luật, mỗi quốc gia có các quy tắc riêng cho nó. FOIA chọn tham khảo các tài liệu pháp lý khác có chứa các quy tắc được xuất bản, trong khi cả OGI và Luật Tiếp cận Thông tin đều có các quy tắc về các phương pháp xuất bản cụ thể, cả hai đều yêu cầu xuất bản thông qua các trang web của chính phủ, các hãng tin đáng tin cậy và các phương tiện truyền thông khác.

Rõ ràng là ý chí của người yêu cầu được tôn trọng trong cả ba tài liệu, điều này yêu cầu các cơ quan đáp ứng nhu cầu của người yêu cầu nếu họ có thể làm như vậy. Tuy nhiên, OGI đã yêu cầu rằng, trong trường hợp cơ quan không có khả năng tuân thủ yêu cầu, biểu mẫu mong muốn sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho bảo mật hoặc có thể tốn kém hoặc các luật khác có quy định về hình thức cụ thể của thông tin, thì biểu mẫu được yêu cầu sẽ không được cung cấp.

Các quy định pháp luật về quyền tự do báo chí ở Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam có cả những điểm tương đồng và khác biệt. Cả 3 quốc gia đều thừa nhận tầm quan trọng của tự do báo chí, thông qua các điều khoản hiến pháp hoặc khuôn khổ pháp lý khác. Tuy nhiên, mức độ bảo vệ quyền này và thực tiễn áp dụng quyền khác nhau đáng kể. Tại Hoa Kỳ, quyền tự do báo chí được hiến pháp bảo vệ mạnh mẽ và chính phủ thường hạn chế kiểm soát hoặc kiểm duyệt trực tiếp. Mặt khác, Trung Quốc và Việt Nam thực hiện kiểm soát đáng kể đối với các phương tiện truyền thông, áp dụng các quy định nghiêm ngặt, yêu cầu cấp phép và cơ chế kiểm duyệt. Các phương tiện truyền thông của chính phủ đóng vai trò quan trọng ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Ngoài ra, các nhà báo ở cả ba quốc gia đều phải đối mặt với những hạn chế nhất định, nhưng mức độ hạn chế khác nhau, trong đó Hoa Kỳ nhìn chung duy trì bối cảnh truyền thông cởi mở và đa dạng hơn so với Trung Quốc và Việt Nam.

5. Giải pháp

5.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tự do báo chí

Thứ nhất, Điều 25 Hiến pháp năm 2013 đã quy định về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Luật Báo chí năm 2016 tuy đã cụ thể hóa quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân trong Điều 10 và Điều 11 Luật Báo chí 2016 nhưng trên thực tế quyền này còn bị nhiều hạn chế do quy định không rõ ràng dẫn đến việc người dân thường lúng túng không hiểu và không biết sử dụng quyền của mình.

Tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí là quyền cơ bản của con người, việc đảm bảo quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí của công dân không những đáp ứng các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết mà còn là các yếu tố hết sức quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của đất nước, đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân cũng phát huy tốt vai trò giám sát của người dân đối với cán bộ, công chức và các cơ quan quản lý nhà nước, đóng góp tích cực vào quá trình phòng chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay.

Từ đó, bổ sung vào Điều 10 thêm một khoản: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền tự do báo chí của công dân”. Khoản này có thể đặt trước hoặc sau khoản “Công dân có quyền”. Như vậy, Điều 10 sẽ có hai khoản, đó là:

“Điều 10. Quyền tự do báo chí của công dân:

  1. Công dân có quyền:
  • Sáng tạo tác phẩm báo chí.
  • Cung cấp thông tin cho báo chí.
  • Phản hồi thông tin trên báo chí.
  • Liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí.
  • In, phát hành báo in.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền tự do báo chí của công dân”.

Tương tự, với Điều 11 cũng bổ sung nội dung: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân”. Như vậy, Điều 11 sẽ là:

“Điều 11.Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân

  1. Công dân có quyền:
  • Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới.
  • Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
  • Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân”.

Thứ hai, tiếp thu kinh nghiệm từ FOIA của Hoa Kỳ về cơ chế bảo vệ người tố cáo hành vi vi phạm pháp luật khỏi việc bị áp dụng các biện pháp xử phạt tới từ các cơ quan công quyền mà thông tin bị tiết lộ gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp. Cụ thể, Đạo luật Bảo vệ người tố cáo đưa ra những cơ chế và khung pháp lý đầy đủ để xác định thế nào là hành vi tố cáo trên cơ sở thiện chí và những cá nhân, tổ chức tiết lộ những thông tin này sẽ hoàn toàn được bảo vệ khỏi các chế tài theo luật. Bên cạnh đó, luật của Hoa Kỳ cũng không yêu cầu cá nhân, tổ chức yêu cầu cung cấp thông tin phải khai các thông tin cá nhân cũng như xác thực những thông tin này. Như vậy, những cá nhân, tổ chức yêu cầu cung cấp thông tin sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi thực hiện quyền chính đáng của mình.

Thứ ba, xác định rõ ràng và thu hẹp các loại thông tin báo chí mật: Luật cần quy định các tiêu chí và hướng dẫn cụ thể để phân loại thông tin báo chí nhằm đảm báo chí giới hạn trong các vấn đề liên quan trực tiếp đến quốc phòng, an ninh và các lợi ích thiết yếu khác của quốc gia. Điều này sẽ giúp ngăn chặn việc lạm dụng phân loại để hạn chế quyền truy cập vào thông tin báo chí một cách không cần thiết.

Thứ tư, thiết lập cơ chế giám sát độc lập: Tạo cơ quan hoặc cơ chế độc lập để xem xét và giám sát việc phân loại thông tin báo chí. Điều này sẽ đảm bảo rằng quy trình phân loại minh bạch, có trách nhiệm giải trình và chịu sự kiểm tra và cân bằng.

Thứ năm, rà soát và cập nhật danh sách các danh mục không tiết lộ: Thường xuyên xem xét và cập nhật danh sách các danh mục không tiết lộ để đảm bảo rằng nó phù hợp với các nguyên tắc minh bạch và tự do thông tin báo chí. Các tiêu chí để giữ lại thông tin báo chí nên được xác định rõ ràng và giới hạn trong các trường hợp tiết lộ sẽ gây rủi ro thực sự cho an ninh quốc gia hoặc các lợi ích quan trọng khác.

Thứ sáu, mở rộng khả năng tiếp cận thông tin báo chí: Thực hiện các luật và quy định tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận thông tin báo chí do các cơ quan chính phủ nắm giữ. Điều này có thể liên quan đến việc ban hành Đạo luật Tự do Thông tin báo chí toàn diện, quy định các quyền của công dân trong việc yêu cầu và nhận thông tin báo chí của chính phủ, tuân theo các giới hạn hợp lý vì lợi ích an ninh quốc gia hoặc quyền riêng tư.

5.2. Tăng cường hợp tác quốc tế

Trên thực tế, hợp tác quốc tế về hoạt động lập pháp trong lĩnh vực báo chí giữa Việt Nam và các tổ chức chính phủ, tổ chức phi chính phủ khu vực và quốc tế đã thu được những kết quả đáng kể như nguồn lực, phương pháp thực thi chính sách và pháp luật về báo chí, kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về báo chí.

Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở mỗi quốc gia mà công tác lập pháp và thực thi pháp luật có sự khác nhau. Nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về báo chí của Việt Nam cần đáp ứng yêu cầu thu hẹp sự khác biệt về môi trường pháp lý trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do báo chí với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Vì vậy, tăng cường hợp tác quốc tế về hoạt động lập pháp trong lĩnh vực báo chí vừa là hoạt động thực hiện nội dung quản lý nhà nước về báo chí vừa là giải pháp thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển hóa các điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia nói chung và pháp luật về báo chí nói riêng nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần tạo môi trường pháp lý thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế, phát triển đất nước. Hợp tác quốc tế về hoạt động lập pháp trong lĩnh vực báo chí cần thực hiện các bước sau:

Đầu tiên là, tổ chức thực hiện tốt các văn bản quốc tế quan trọng có liên quan như: Công ước toàn cầu về Luật Bản quyền, Công ước Brussels về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật...

Tiếp đến là, chủ động xây dựng các kế hoạch khảo sát kinh nghiệm lập pháp về báo chí ở một số nước trên thế giới; tham dự các hội nghị quốc tế liên quan đến báo chí như: Diễn đàn xã hội thông tin, Diễn đàn Liên hợp quốc về quản lý Internet, các hội nghị Bộ trưởng Thông tin các nước ASEAN; tham gia các hoạt động chống khủng bố, chống tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, vì môi trường sống, vì hòa bình và trực tiếp tham gia vào các tổ chức báo chí khu vực và quốc tế.

6. Kết luận

Tóm lại, Nghiên cứu so sánh pháp luật Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam về quyền tự do thông tin báo chí đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích cho việc sửa đổi Luật báo chí 2016.

Hoa Kỳ có một khung pháp lý mạnh mẽ, đặc biệt là với FOIA, thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. FOIA đảm bảo quyền truy cập công khai vào thông tin của chính phủ, với các ngoại lệ hạn chế để bảo vệ an ninh quốc gia và các lợi ích cụ thể khác. Luật pháp Hoa Kỳ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chủ động tiết lộ thông tin và cung cấp các cơ chế để các cá nhân yêu cầu thông tin.

OGI của Trung Quốc nhấn mạnh việc chủ động tiết lộ thông tin của chính phủ thông qua các kênh khác nhau. Mặc dù đã đạt được tiến bộ trong việc tăng cường tính minh bạch, OGI cũng bao gồm các hạn chế về tiết lộ, chẳng hạn như bí mật nhà nước và thông tin có thể gây hại cho an ninh hoặc trật tự công cộng. Giải quyết những hạn chế này có thể tăng cường hơn nữa quyền thông tin và quyền tự do báo chí ở Việt Nam.

Luật Báo chí năm 2016 của Việt Nam thừa nhận tầm quan trọng của quyền tự do báo chí. Luật có quy định về việc không được tiết lộ một số thông tin, kể cả thông tin mật, tài liệu liên quan đến hoạt động nội bộ của cơ quan nhà nước.

Để sửa đổi Luật Báo chí 2016, Việt Nam có thể vận dụng những mặt tích cực của luật pháp của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc. Việc thực hiện một khuôn khổ pháp lý nhấn mạnh đến việc chủ động công bố thông tin, giảm bớt các hạn chế đối với việc tiếp cận thông tin và bảo vệ các lợi ích an ninh quốc gia một cách cân bằng có thể tăng cường tự do báo chí và thúc đẩy tính minh bạch ở Việt Nam. Hơn nữa, kết hợp các cơ chế để công chúng tham gia và trách nhiệm giải trình có thể góp phần tạo nên một xã hội cởi mở và dân chủ hơn.

Nhìn chung, nghiên cứu so sánh nhấn mạnh sự cần thiết của Việt Nam trong việc tăng cường luật pháp và các quy định về quyền tự do thông tin báo chí. Bằng cách học hỏi kinh nghiệm của Hoa Kỳ và Trung Quốc, đồng thời kết hợp các tiêu chuẩn quốc tế, Việt Nam có thể tạo ra một khung pháp lý bảo vệ quyền tự do thông tin báo chí, bảo vệ lợi ích quốc gia và đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc phổ biến thông tin.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

[1] Góp ý sửa đổi một số bất cập của Luật báo chí 2016, https://lamdong.gov.vn/sites/stttt/tintucsukien/tin-tuc/SitePages/Gop-y-sua-doi-mot-so-bat-cap-cua-Luat-bao-chi-2016.aspx, Truy cập ngày 29/5/2023.

[2] Nguyễn Thị Phương Thanh (2011), Vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Luận văn thạc sĩ báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. Hà Nội, tr11-12.

[3] Phí Thị Thanh Tâm (2012) “Tự do báo chí qua các bản Hiến pháp và một số kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (24), tr.15-21.

[4] Tiểu mục (f), Điều 2, Đạo luật Tự do Thông tin.

[5] Generally any person - United States citizen or not - can make a FOIA request, https://www.foia.gov/faq.html, Truy cập ngày 02/6/2023.

[6] Lê, Thị Khánh Huyền (2017), Quyền tự do báo chí của công dân, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

[7] Nguyễn Thị Phương Thanh (2011), Vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Luận văn Thạc sĩ báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Góp ý sửa đổi một số bất cập của Luật Báo chí 2016, https://lamdong.gov.vn/sites/stttt/tintucsukien/tin-tuc/SitePages/Gop-y-sua-doi-mot-so-bat-cap-cua-Luat-bao-chi-2016.aspx, Truy cập ngày 29/05/2021
  2. Nguyễn Thị Phương Thanh (2011), Vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam thích kỳ đổi mới. Luận văn Thạc sĩ báo chí, Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr11-12.
  3. Phí Thị Thanh Tâm (2012) “Tự do báo chí qua các bản Hiến pháp và một số kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (24), tr.15-21.
  4. Tiểu mục (f), Điều 2, Đạo luật Tự do Thông tin
  5. “Generally any person - United States citizen or not - can make a FOIA request”, https://www.foia.gov/faq.html, Truy cập ngày 02/6/2023
  6. Mai Thị Mai, Nguyễn Quang Huy (2018), “Luật Tiếp cận thông tin -Góc nhìn so sánh với Luật Tự do thông tin của Hoa Kỳ”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 2/2018, tr. 20 - 25.
  7. Đinh Thanh Phương (2018), “Mối quan hệ giữa quyền tiếp cận thông tin và quyền giám sát của nhân dân”, Tạp chí Luật học, tr.75-88.
  8. Dương Văn Quý, Lê Tiểu Vy, Nguyễn Hùng Vừa, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Đức Ngọc, (2021), Trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội
  9. Nguyễn Thị Phương Thanh (2011), Vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Luận văn thạc sĩ báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
  10. Lê Thị Khánh Huyền (2017), Quyền tự do báo chí của công dân, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội
(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Nghiên cứu so sánh pháp luật Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam về quyền tự do thông tin báo chí để sửa đổi Luật Báo chí 2016
    POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO