Vấn đề kinh tế báo chí - truyền thông Việt Nam chưa bao giờ nóng bỏng, phức tạp và nan giải như những năm gần đây. Cả giới báo chí cùng các nhà thiết kế chính sách đã bàn luận về nhiều định hướng, mô hình và phương thức tháo gỡ. Tuy nhiên, bài toán khó dường như vẫn chưa có lời giải đáp thoả đáng. Những kết quả đạt được mới chỉ tiến đến một vài khía cạnh của cơ chế chính sách, những ý kiến đề xuất dường như mới tóm lược một số mô hình tham khảo bên ngoài. Chúng ta vẫn chưa thực sự thẳng thắn đề cập đến bản chất, thậm chí còn đang né tránh những nút thắt cơ bản kìm hãm sự phát triển kinh tế báo chí - truyền thông. Nút thắt đó mang tính nguyên lý, như một “vòng kim cô” cần được “niệm chú” nới bỏ.
Từ khóa: kinh tế báo chí; truyền thông báo chí; nút thắt; khó khăn.
1. Những biểu hiện cơ bản và trình độ phát triển của kinh tế báo chí - truyền thông Việt Nam
Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2023, doanh thu toàn ngành ước đạt 3.744.214 tỷ Việt Nam đồng, tăng 1,49% so với năm 2022; Nộp ngân sách nhà nước ước đạt 99.323 tỷ Việt Nam đồng, tăng 1,31% so với năm 2022; Đóng góp vào GDP của ngành thông tin và truyền thông ước đạt 887.398 tỷ Việt Nam đồng, tăng 1,34% so với năm 2022; Tổng số lao động toàn ngành năm 2023 ước khoảng 1.767.766 lao động, tăng 2,72% so với năm 2022. Riêng doanh thu truyền thông đạt ngưỡng 4 tỷ USD cho thấy sự tăng trưởng và tiềm năng của ngành truyền thông trong việc tạo ra giá trị kinh tế[1]. Cũng theo thống kê của Bộ nguồn thu của các cơ quan báo chí trải theo phổ rất rộng từ 200-300 triệu cho đến mức 4-5.000 tỷ Việt Nam đồng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, số cơ quan báo chí có nguồn thu ở mức nghìn tỷ chỉ còn khoảng một, hai cơ quan báo chí.
Trong chiến lược “Chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” (do Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định số 348/QĐ-TTg phê duyệt ngày 6/4/2023), một mục tiêu cụ thể được đặt ra là đến năm 2030 các cơ quan báo chí cần tối ưu hóa nguồn thu, trong đó 30% cơ quan báo chí tăng doanh thu tối thiểu 20%. Như vậy, có thể thấy Chính phủ đã đặt ra vấn đề kinh tế báo chí như là một động lực quan trọng để phát triển báo chí - truyền thông trong thời đại kinh tế số. Muốn tìm ra giải pháp đúng cho sự phát triển kinh tế báo chí - truyền thông, trước tiên phải định nghĩa đúng về khái niệm, đặc điểm, vai trò, tính chất cơ bản của nó. Cần đánh giá đúng về hiện trạng năng lực, trình độ phát triển của lĩnh vực kinh tế này, tiếp cận cả từ những quy luật kinh tế chung, đồng thời đặt nó trong những yếu tố đặc thù Việt Nam. Trong đó, những phương diện cần làm rõ là: (i) sự tập hợp lực lượng sản xuất, tổ chức và phân công lao động trong lĩnh vực này như thế nào? (ii) sở hữu tư liệu sản xuất đang nổi lên vấn đề gì? (iii) trình độ công nghệ kỹ thuật và nhu cầu của công chúng trong vai trò người tiêu thụ sản phẩm hang hóa? (iv) cấp độ chuyên môn hóa và khả năng liên kết, ảnh hưởng trong khu vực, quốc tế?
Nhìn vào thực tế lĩnh vực báo chí – truyền thông Việt Nam hiện nay có thể thấy có bốn biểu hiện cũng là những đặc trưng căn bản của lĩnh vực này trong kỷ nguyên số. Nhận thức được đúng những biểu hiện này góp phần vào hiểu được xu hướng báo chí – truyền thông, từ đó như đưa ra được lời giải thỏa đáng cho vấn đề kinh tế trong lĩnh vực báo chí.
1.1. Tổ chức và phân công lao động báo chí - truyền thông đã đạt mức chuyên sâu
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Đó cũng là quá trình thúc đẩy trao đổi sản phẩm, đáp ứng các nhu cầu khác nhau. Đối với lĩnh vực báo chí - truyền thông quá trình tổ chức và phân công lao động chuyên sâu trong lĩnh vực là quá trình tất yếu. Báo chí - truyền thông mang đặc trưng của lao động tập thể, bao gồm rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn phối hợp với nhau. Do phân công lao động của nhiều chuyên ngành hẹp, sản phẩm và kết quả lao động của người này trở nên cần thiết cho người khác, sản phẩm của một nhóm người hoặc một đơn vị này trở thành nguyên liệu ban đầu cho quy trình hoạt động khác, kể cả khi công nghệ số bùng nổ và tác động lớn đến quy trình sản xuất nội dung. Ví dụ, sản phẩm đồ họa của một nhà sáng tạo có thể tham gia nội dung chung của một ekip sản xuất chương trình, sản phẩm chương trình đó cũng có thể bán bản quyền phát sóng/đăng tải cho các kênh truyền hình hoặc nhiều cơ quan báo chí khác nhau để từ đó trở thành hàng hóa để kinh doanh quảng cáo, vận động tài trợ…
Phân công lao động trong lĩnh vực báo chí - truyền thông ngày càng sâu sắc và theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hóa. Từ đó xoá bỏ tính tự túc, tự cấp, bảo thủ, trì trệ của mô hình hoạt động báo chí - truyền thông theo kiểu khép kín, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động.
Hình 1: Số lượng lao động theo lĩnh vực báo chí ở Việt Nam giai đoạn 2003-2033
(Nguồn: Cục Báo chí Việt Nam)
Hình 2: Nguồn nhân lực báo chí ở Việt Nam giai đoạn 2003-2022
phân theo trình độ học vấn
(Nguồn: Cục Báo chí- Bộ Thông tin và Truyền thông)
Tác động của những thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đã và đang là yếu tố thúc đẩy quá trình phân công lao động và chuyên môn hoá báo chí truyền thông lên đến trình độ sâu rộng chưa từng thấy. Trên thực tế đã hình thành sự phân công giữa các bộ phận như: đơn vị chuyên nghiên cứu phát triển (ví dụ: các nhà sáng tạo ý tưởng, cung cấp định dạng format chương trình hoặc đổi mới công nghệ quy trình sản xuất); có những đơn vị chuyên sản xuất từng linh kiện nội dung (ví dụ: các công ty media chuyên sản xuất và cung cấp phim tài liệu, các chương trình chuyên đề, phóng sự, v.v.), chuyên cung cấp thiết bị (ví dụ: các hãng chuyên bán hoặc cho thuê camera, bàn dựng hậu kỳ, đường truyền tín hiệu, thiết bị lưu trữ, hạ tầng phân phối nội dung số, v.v.), hậu cần sản xuất (ví dụ: các công ty thiết bị âm thanh, ánh sáng, sân khấu, v.v.) hoặc kinh doanh dịch vụ (ví dụ: đại lý quảng cáo, vận động tài trợ, dịch vụ truyền thông, v.v.). Liên kết kinh tế giữa các thành tố trong dây chuyền này ngày càng mật thiết, làm tăng cường tính phụ thuộc lẫn nhau, quá trình sản xuất của một thành tố hoàn toàn dung hợp thành một quá trình sản xuất thống nhất. Chuyên môn hoá ngày càng phát triển thì quan hệ hợp tác giữa các công ty, trung tâm, các cơ quan báo chí và doanh nghiệp truyền thông ngày càng mật thiết, hợp tác trao đổi sản phẩm trên thị trường ngày càng bền vững.
Hình 3: Tổng số bản báo in được phát hành ở Việt Nam giai đoạn 1986-2022 (đơn vị: triệu)
(Nguồn: Cục Báo chí- Bộ Thông tin và Truyền thông)
1.2. Các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất trong lĩnh vực truyền thông đa dạng
Từ trước đến nay, quá trình sản xuất ra một sản phẩm truyền thông là việc không đơn giản cả về mặt vật chất và kỹ thuật. Một trong những nguyên nhân chính nằm ở vấn đề kỹ thuật, thiết bị sản xuất, tư liệu sản xuất của lĩnh vực này luôn đòi hỏi những hệ thống chuyên dụng, công nghệ cao và cần chi phí đầu tư lớn. Ví dụ như, có doanh nghiệp truyền thông sở hữu một thiết bị chuyên dụng đơn lẻ nhưng cấu hình cao (ví dụ: camera quay phim quảng cáo 4k-8k) có giá trị đầu tư không kém hơn một cơ quan báo điện tử trang bị một hệ thống trường quay nhỏ để thực hiện nội dung nghe nhìn trực tiếp (live stream) v.v..
Với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, điều kiện sống và tích lũy cùng khả năng chi trả cho các sản phẩm dịch vụ báo chí - truyền thông của người dân cũng được tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ truyền thông mới đã khiến nhiều thao tác, công việc từ chỗ đòi hỏi thiết bị chuyên dụng đã trở thành phổ biến với thiết bị dân dụng, thậm chí là thứ mỗi cá nhân có thể tự thực hiện được. Máy điện thoại cá nhân có thể quay phim chụp ảnh, máy tính, laptop có thể sử hình, dựng phim. Song song với việc các thiết bị truyền thông trở nên phổ cập, lượng thiết bị chuyên dụng cho công nghiệp truyền thông, từ các máy tính, phần mềm, thiết bị ghi hình, dựng phim, thu tiếng, các hệ thống âm thanh, ánh sáng đến nhiều vật tư chuyên dụng ngày càng phổ biến tới khắp các hệ thống, trung tâm sản xuất, doanh nghiệp ở quy mô khác nhau. Từ đó, sở hữu tư liệu sản xuất nội dung phát sinh tất yếu do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hoá nói chung.
Hình thức sở hữu tư liệu sản xuất trong lĩnh vực này chủ yếu tập trung ở các dạng: sở hữu nhà nước (các cơ quan báo chí trung ương và địa phương), sở hữu tập thể (của các nghiệp đoàn, hội nhóm, xuất phát từ các cá nhân tự nguyện tham gia đóng góp), sở hữu hỗn hợp (liên doanh liên kết, phối hợp xã hội hóa giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức ngoài quốc doanh) và sở hữu tư nhân (mô hình sản xuất nhỏ hoặc sở hữu tư bản).
Cho đến nay, Việt Nam chưa thể thống kê đầy đủ giá trị sở hữu tư liệu sản xuất của các lực lượng kinh tế ngoài quốc doanh, nhưng thông qua mối liên hệ giữa khả năng tổ chức thưc hiện các sản phẩm truyền thông chất lượng cao với số lượng - chất lượng - chủng loại trang thiết bị tư liệu sản xuất có thể nhận diện được mức độ này tương đối xác thực. Tính đến thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp truyền thông ở Việt Nam đã đạt tới trình độ sản xuất các tác phẩm nghe nhìn theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Từ các video clip, các chương trình gameshow theo bản quyền và định dạng truyền hình phương Tây, phim dài tập, các chương trình sự kiện quy mô lớn như thi hoa hậu quốc tế, thi đấu thể thao, các sự kiện văn hóa, v.v..
Hình 4: Tổng lượt xem báo chí điện tử hàng năm của Việt Nam giai đoạn 2001-2022 (Đơn vị: triệu)
(Nguồn: Cục Báo chí- Bộ Thông tin và Truyền thông)
Hình 5: Quy mô thị trường (Tổng doanh thu từ quảng cáo) của báo chí Việt Nam giai đoạn 2003-2022 (Đơn vị: tỷ Việt Nam đồng)
(Nguồn: Cục Báo chí- Bộ Thông tin và Truyền thông)
1.3. Sự phát triển kỹ thuật - công nghệ mới và nhu cầu hưởng thụ tạo áp lực lớn đối với cơ quan báo chí - truyền thông
Sự phát triển của công nghệ truyền thông số với những tính năng, công nghệ vượt xa so với “sự hình dung thông thường”, các thiết bị kỹ thuật với nền tảng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), kết nối số (internet of things), v.v. ngày một hiện đại không chỉ đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng sống của người dân, mà còn là một động lực quan trọng kích thích sự phát triển của thị trường báo chí - truyền thông cả về quy mô, giá trị sản phẩm, lưu thông hàng hóa và tính thanh khoản ngày một cao.
Hình 6: Top 5 đài truyền hình ở Việt Nam dẫn đầu về mức độ trưởng thành chuyển đổi số năm 2023
(Nguồn: Bảng xếp hạng từ Trung tâm Hỗ trợ Chuyển đổi số báo chí)
1.4. Sự phân công lao động đã đạt mức chuyên sâu và trao đổi trong lĩnh vực báo chí - truyền thông dần hướng tới mức độ liên kết, ảnh hưởng sâu rộng ở phạm vi khu vực và quốc tế
Xu hướng toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn và ảnh hưởng đến tất cả quốc gia và thị trường ở khắp các châu lục trên thế giới, nói theo cách khác là vào một “thế giới phẳng”. Một trong những yếu tố của quá trình toàn cầu hóa là sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc, trong đó có sự thâm nhập các sản phẩm nghe nhìn ở nhiều dạng thức khác nhau. Không thể phủ nhận sự phát triển vượt bậc của các sản phẩm báo chí - truyền thông thế giới trên tất cả các thể loại, loại trừ những yếu tố mang tính độc hại, phản văn hóa - phi chính trị thì rất nhiều sản phẩm nghe nhìn quốc tế đã là món ăn tinh thần không thể thiếu với người dân Việt Nam. Quá trình giao lưu, hợp tác quốc tế quốc tế ngày một rộng đã mở là cánh cửa để công chúng truyền thông tiếp cận được với nhiều sản phẩm đa dạng, đồng thời cũng là động lực phát triển để phá vỡ tính khu biệt, nhàm chán của hệ thống nội dung thông tin còn khu biệt trước đây. Nhiều sản phẩm báo chí truyền thông không chỉ thực hiện theo cách áp dụng công nghệ nước ngoài, định dạng nước ngoài mà còn tiếp cận đến việc chia tách từng quy trình sản xuất tiền kỳ - hậu kỳ ra nhiều hệ thống trong và ngoài nước nhằm đạt chất lượng và hiệu quả kinh doanh cao nhất. Phân công lao động và trao đổi ở phạm vi quốc tế đã trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường truyền thông Việt Nam, đặc biệt là từ những năm đầu thế kỷ XXI.
Hình 7: Top 5 báo điện tử/ trang tin được truy cập nhiều nhất ở Việt Nam tháng 12/2023
(Nguồn: Similarweb)
Quá trình giao lưu tiếp xúc là những dấu hiệu tích cực cho nền báo chí – truyền thông ở Việt Nam hiện nay, tuy nhiên trên thực tế bức tranh kinh tế báo chí - truyền thông trong nước còn có những yếu tố đặc thù. Trước tiên, nó thể hiện ở một số khía cạnh, thị trường báo chí truyền thông Việt Nam chưa thể hiện rõ nét và phát huy tối ưu các nhân tố của cơ chế thị trường: vì một nền kinh tế muốn vận hành được thì trước tiên phải dựa vào thị trường có nghĩa là phải dựa vào bộ máy tự động của cả cung, cầu, giá cả hàng hoá, với môi trường cạnh tranh, động lực là lợi nhuận. Các bộ phận hợp thành cơ chế thị trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau, như là những khâu trong guồng máy. Giá cả là cái nhân của thị trường, cung cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn là sức mạnh của thị trường. Để hiểu rõ hơn các thành tố hợp thành cơ chế thị trường, cần tìm hiểu những khái niệm liên quan như:
Cầu hàng hóa: Là số lượng hàng hoá hay dịch vụ báo chí - truyền thông mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong cùng một thời gian đã xuất hiện và ngày một gia tăng. Nhu cầu của công chúng luôn thay đổi, phát triển theo thời gian, họ không thể bó buộc việc thụ hưởng thông tin vào khuân khổ năng lực hạn hẹp và nhiều năm tháng không thay đổi của bộ phận báo chí - truyền thông làm theo kế hoạch mục tiêu.
Cung hàng hoá: Là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán (các cơ quan báo chí, các doanh nghiệp báo chí truyền thông, các tổ chức và cá nhân trong nước và quốc tế) có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định. Trên thực tế các cơ quan báo chí sản xuất theo đặt hàng của nhà nước, nhiều nội dung theo cơ chế cố định, không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu và sở thích của công chúng. Sản phẩm truyền thông và cơ quan truyền thông được giới hạn theo không gian địa lý (tỉnh - thành phố) trước đây nay không còn phù hợp phát triển với tính chất, đặc điểm của truyền thông số.
Giá cả: Là yếu tố phản ánh quan hệ cung cầu về các sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ báo chí - truyền thông cụ thể. Giá thành sản phẩm truyền thông không phản ánh hết chi phí sản xuất, bởi đã có sự trợ giá từ ngân sách cho các nhiệm vụ tuyên truyền, truyền thông chính sách. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân làm sản phẩm truyền thông phải tự “bơi” và cần tính toán đến giá bán trong sự so sánh với chi phí sản xuất và vấn đề lợi nhuận.
Cạnh tranh: Là sự chạy đua giữa các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức kinh tế trong việc tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ báo chí - truyền thông, nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Đây là một tất yếu của nền kinh tế thị trường và cũng là yếu tố cơ bản để hình thành thị trường truyền hình. Sức cạnh tranh này bị suy giảm, triệt tiêu với sự tồn tại nguồn ngân sách báo cấp cố định
Tiền tệ, giá trị: Là sự đo lường và biểu hiện giá trị của các sản phẩm báo chí - truyền thông. Lao động báo chí - truyền thông, sản phẩm báo chí - truyền thông với đặc trưng của hình thức lao động “sáng tạo” cần được đo lường, và thanh toán bằng tiền tệ và với biến động của thị trường, tuy nhiên hiện được giới hạn bởi khung biểu giá cố định nhiều năm không thay đổi.
Lợi nhuận: Với thị trường báo chí - truyền thông, lợi nhuận là khoản thu được của các cơ quan sau khi trừ đi chi phí sản xuất, thuế, v.v. và trở thành một trong những động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các cơ quan báo chí - truyền thông đến các lĩnh vực sản xuất thu hút người tiêu dùng (là công chúng truyền thông). Lợi nhuận cũng là yếu tố khiến các doanh nghiệp báo chí - truyền thông đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Khi xuất hiện bốn vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? thu lợi ra sao? thì đó cũng là lúc thị trường báo chí - truyền thông hoàn thiện được mục tiêu kinh tế của mình. Tuy nhiên với các cơ quan báo chí, mục tiêu chính trị mới là yêu cầu tối quan trọng, thật khó có thể cùng một lúc hài hoà được cả hai mục tiêu này. Nếu đã không đặt mục tiêu lợi nhuận thì người đặt hàng (cơ quan chủ quản) buộc phải có chính sách hỗ trợ tối đa cho những hoạt động dịch vụ công, nhưng thực tế đó chưa phù hợp. Đã đến lúc phải đặt báo chí là một ngành kinh tế, các sản phẩm báo chí là hàng hóa, cơ quan báo chí là doanh nghiệp. Lãnh đạo cơ quan báo chí phải tư duy theo hướng tờ báo của mình là một công ty trong ngành công nghiệp tin tức, và phải tìm được mô hình kinh doanh hiệu quả cho tòa soạn mới có thể giải quyết triệt để và tạo ra nguồn sinh khí mới cho kinh tế báo chí Việt Nam hiện tại và trong thời gian tới.
2. Thảo luận về một số điểm “nghẽn” kìm hãm sự phát triển của kinh tế báo chí - truyền thông Việt Nam
2.1. Điểm nghẽn trong nhận thức
Khái niệm cơ bản về kinh tế báo chí truyền thông là gì? phạm vi, chức năng hoạt động thế nào; phương thức và mô hình quản lý kinh tế báo chí ra sao - đó là yếu tố cơ bản đầu tiên để xác định con đường phát triển kinh tế báo chí - truyền thông theo đặc thù Việt Nam. Trên thực tế, khái niệm “kinh tế báo chí - truyền thông” chưa được thống nhất và chưa xuất hiện chính thức trong bất kỳ một văn bản quy định pháp luật nào mà chỉ được đề cập trong một số báo cáo tổng kết hoặc văn bản định hình chiến lược. Khái niệm này cũng chưa thể hiện rõ ràng trong hệ thống cơ sở sở lý luận báo chí - truyền thông, trong các giáo trình cơ bản của các trung tâm đào tạo nghiên cứu. Chức năng kinh tế chưa được coi là chức năng cơ bản, thiết yếu, được ghi nhận phù hợp trong hệ thống các chức năng cơ bản của báo chí cách mạng. Học phần Kinh tế báo chí - truyền thông nằm trong khung chương trình đào tạo bậc Thạc sĩ, Tiến sĩ của một số cơ sở đào tạo nhưng chưa có giáo trình chính thức; phần lớn giảng viên giảng dạy không được đào tạo cơ bản kiến thức chuyên ngành, không đủ kinh nghiệm và trải nghiệm thực tế về lĩnh vực này. Chính vì vậy, tư duy lý luận và nhận thức về kinh tế báo chí - truyền thông còn đơn sơ, chưa theo kịp với thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài toán đặt ra hiện nay cho báo chí – truyền thông Việt Nam nhằm hướng đến mục tiêu làm thế nào để các cơ quan báo chí “tự chủ được tài chính”, tự đảm bảo được “nguồn lực kinh tế - kỹ thuật” cho các hoạt động nghiệp vụ, cũng như khả năng mở rộng quy mô sản phẩm và khả năng ảnh hưởng. Đề cập về những mô hình, giải pháp kinh tế báo chí -truyền thông ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều ý kiến, nhưng đa phần chỉ dừng lại ở góc độ mô tả chung chung, trong đó nổi lên là một số mô hình tham khảo từ nước ngoài, đưa ra một số khuyến nghị thiếu cụ thể với cấp quản lý về cơ chế chính sách.
Bài toán kinh tế báo chí đặt ra là cần trả lời câu hỏi cơ bản và quan trọng nhất, thâm chí có ý kiến chất vấn rằng “chúng ta đã có, muốn có và thực sự muốn phát triển thị trường báo chí - truyền thông hay chưa”? Vì muốn có một thị trường báo chí - truyền thông mạnh, trước tiên phải cho nó vận hành đúng các quy luật của kinh tế thị trường bao gồm:
Quy luật giá trị: Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị, việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dịch vụ báo chí truyền thông phải được tiến hành trên cơ sở của việc tính hao phí lao động cần thiết.
Quy luật cung cầu: Cung - cầu trong thị trường báo chí - truyền thông đã thực sự tồn tại và hoạt động một cách khách quan, có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau trên thị trường. Như vậy, cần có một cuộc “đại phẫu” để rà soát, cắt bỏ những thứ không cần thiết, muốn tồn tại thì phải có lý do hợp lý.
Quy luật canh tranh: Là sự tác động lẫn nhau giữa người mua và người bán hay giữa người sản xuất và người tiêu dùng sản phẩm báo chí - truyền thông. Hai nhóm này tác động lẫn nhau với tư cách là một thể thống nhất, một hợp lực.
Quy luật lưu thông tiền tệ: Là quy luật xác định lượng tiền cần cho lưu thông. Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hoá với tốc độ lưu thông tư bản
Ngoài ra, thị trường báo chí - truyền thông cũng chịu tác động của một số quy luật khác như: quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm, quy luật khủng hoảng kinh tế, quy luật tâm lý, v.v.. Đơn cử một ví dụ, để có được thị trường báo chí - truyền thông đúng nghĩa thì ai là người tham gia hoạt động ở đó, ai là người “bán”- người “mua”. Nếu như “bán” mà “nửa vời” (vì chỉ có thứ mang bán là nội dung nhiệm vụ tuyên truyền), không có cái để bán, hoặc không thể/không được sản xuất ra thứ để người ta muốn mua thì hoạt động kinh tế đó mới chỉ là “trao nhận sản phẩm có yếu tố tiền tệ”. Trước tiên, cần thống nhất nhận thức rõ về đặc điểm kinh tế, chức năng kinh tế của cơ quan báo chí. Cần làm rõ câu hỏi: “Cơ quan báo chí có phải là một doanh nghiệp”- chí ít là một “doanh nghiệp đặc biệt”?
Trong nền kinh tế thị trường, cơ quan báo chí chỉ có thể vận hành hoạt động kinh tế linh hoạt nếu như có vị thế của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế điều này không được khẳng định, thừa nhận đúng vai trò trong các quy định pháp luật hiện hành. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 Luật Báo chí 2016, cơ quan báo chí hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp có thu, “không phải doanh nghiệp”. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan báo chí, nhất là các cơ quan báo chí chính trị chủ lực, vừa phải thực hiện nhiệm vụ chính trị, vừa phải thực hiện nhiệm vụ báo chí, vừa phải chăm lo đời sống cho cán bộ, phóng viên, biên tập viên. Chúng ta muốn cơ quan báo chí về cơ bản sẽ phải tự chủ về tài chính, nhưng muốn đạt mục tiêu đó trước tiên phải đặt tổ chức này vào khuôn khổ mô hình quản trị doanh nghiệp, để có đầy đủ công năng phù hợp cho việc quản lý tài chính.
Pháp luật của Việt Nam ngày càng khuyến khích sự tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân nhằm mục tiêu phát triển nền kinh tế của đất nước. Cụ thể, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Tuy nhiên, xuất phát từ lý do về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, v.v. cũng như tùy thuộc đặc điểm của từng lĩnh vực khác nhau mà các tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động kinh doanh trong ngành nghề đó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Tuy nhiên, hiện chưa quy định theo hướng mở rộng hoạt động kinh doanh khác theo quy định pháp luật chứ không chỉ hạn chế các lĩnh vực như Luật Báo chí hiện hành để tạo điều kiện cho cơ quan báo chí có nguồn thu phát triển hoạt động báo chí, cũng phù hợp việc xác định cơ quan báo chí là doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện.
Kinh tế báo chí nói chung đang thu hút nguồn thu trên môi trường số, thông qua các hệ thống nội dung số, thu dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng viễn thông, các dịch vụ thu phí bạn đọc với nội dung chuyên biệt, hấp dẫn, v.v.. Trong khi đó, Luật Báo chí hiện hành chưa công nhận các sản phẩm đặc thù trên nền tảng số là thể loại báo chí. Vì thế, cần bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi Luật Báo chí, đồng thời bổ sung định mức kinh tế kỹ thuật cho hoạt động sáng tạo, sản xuất nội dung trên môi trường số, tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển nội dung số được thuận lợi.
2.2. Điểm nghẽn giữa mục tiêu phát triển kinh tế báo chí với các nguyên tắc hoạt động báo chí - truyền thông
Làm thế nào để báo chí vẫn giữ được tôn chỉ, mục đích, làm tròn trách nhiệm của cơ quan thông tin đại chúng, có tính chất định hướng về chính sách của đảng, nhà nước, là diễn đàn của nhân dân nhưng vẫn phải có được nguồn thu để tái sản xuất, đầu tư và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của độc giả, đó là một bài toán khó giải quyết trong một sáng một chiều. Doanh thu từ phát hành báo in giảm chưa từng có trong lịch sử phát hành báo của Việt Nam. Doanh thu từ quảng cáo cũng gặp không ít khó khăn khi phải cạnh tranh với các nền tảng mạng xã hội mới xuất hiện. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan báo chí, nhất là các cơ quan báo chí chính trị chủ lực, vừa phải thực hiện nhiệm vụ chính trị, vừa phải thực hiện nhiệm vụ báo chí, vừa phải chăm lo đời sống cho cán bộ, phóng viên, biên tập viên.
Có nhiều ý kiến cho rằng, tác phẩm báo chí là một loại hàng hóa đặc biệt, không chỉ theo quy luật cung - cầu như các hàng hóa khác mà nội dung lại phục vụ cho công tác tư tưởng, cung cấp thông tin chính sách, tuyên truyền. Vì thế, cần thúc đẩy hơn nữa sự hỗ trợ của nhà nước, trong đó có chính sách thuế và các cơ chế ưu đãi bám sát với thực tiễn thị trường, để cơ quan báo chí có thể tập trung tốt nhất việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Hiện còn điểm vênh trong quan điểm, nhận thức của cơ quan chủ quản, cho bộ máy báo chí “tự chủ” hay “tự bơi”, phó mặc cho cơ quan báo chí tự trang trải, vật lộn với thị trường trong khi vẫn phải thực hiện nhiệm vụ là cơ quan ngôn luận của cơ quan, tổ chức của mình. Nhiều cơ quan chủ quản thiếu quan tâm, để cho cơ quan báo chí tự chủ, tự “bơi”, chưa quan tâm đúng mức đến việc chăm sóc, bồi dưỡng cho nguồn cán bộ, nhân viên. Thêm vào đó, thông tin chính thống, thông tin có bản quyền từ các cơ quan báo chí chưa được đánh giá đúng giá trị, việc đánh đánh giá đó cuối cùng phải quy ra hiệu quả kinh doanh và hiệu quả thông tin tuyên truyền đến với xã hội.
Để báo chí vừa làm tốt chức năng tuyên truyền, lại vừa thực hiện được chức năng kinh tế của mình, rất cần thúc đẩy các quy định mới về các sản phẩm báo chí đặt hàng. Cần quy định rõ hơn nội dung nào được coi là hàng hóa và đâu là sản phẩm tuyên truyền, cần phân định rạch ròi ranh giới giữa tuyên truyền và làm kinh tế, tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan báo chí hoạt động
2.3. Điểm nghẽn giữa bùng nổ kỹ thuật và công nghệ, giữa nhu cầu hưởng thụ của công chúng với khả năng đáp ứng thực tế của hệ thống báo chí - truyền thông
Sau hàng trăm năm phát triển, tờ báo in đã không còn là nền tảng được ưa thích, công chúng đã thay đổi cách tiếp cận thông tin. Thậm chí, ngay cả các loại hình có nhiều thế mạnh như phát thanh, truyền hình truyền thống (mô hình kênh 24/7) hiện đang mất dần sức hút với không chỉ giới trẻ, mà còn cả nhiều thành phần khác trong xã hội; ngoài một số dạng báo-tạp chí điện tử và nền tảng nghe nhìn OTT giữ được thị phần và lượng công chúng trẻ. Sự sa sút về năng lực kinh tế của các loại hình báo chí truyền thống bắt nguồn từ hai vấn đề chính: mất đi vị thế "độc quyền" tin tức và "sụp đổ kênh phân phối sản phẩm". Khi truyền thông xã hội dần trở thành kênh tìm kiếm thông tin phổ biến đối với cộng đồng, các cơ quan báo chí buộc phải cạnh tranh trực tiếp với mạng xã hội và các kênh truyền thông khác để tồn tại. Khi người đọc dần thay đổi thói quen, chuyển sang “lướt” trên internet; các báo dù có phát triển các phiên bản điện tử nhưng cũng không thể đáp ứng được nhu cầu công chúng không chỉ cần thông tin một chiều mà cần tương tác và thậm chí tự mình trở thành nhà sản xuất nội dung, được tham gia vào việc truyền phát thông tin thông qua các nền tảng và ứng dụng mạng xã hội.
Nếu với kênh phân phối truyền thống là các sạp báo, các báo vẫn bán báo và thu tiền phát hành (bên cạnh nguồn thu chính nữa quảng cáo của doanh nghiệp trên báo), nhưng với "kênh phát hành số" – tờ báo không thu được tiền trực tiếp từ độc giả mà thu gián tiếp qua nguồn tiền quảng cáo trung gian. Không thể lảng tránh sự rủi ro của một tờ báo báo mạng thuần túy phụ thuộc vào Facebook (như BuzzFeed News), nhất là khi tờ báo với sứ mệnh, với chức năng nhiệm vụ của mình phải phụ thuộc vào mạng xã hội – phụ thuộc vào mô hình kinh doanh của mạng xã hội nước ngoài.
Hình 8: Xu hướng các loại lưu lượng truy cập ở Việt Nam từ tháng 10/2022 đến tháng 10/2023
(Nguồn: MGID dashboard và Contextual intelligence, 2023)
Một trong những nguyên nhân dẫn tới khó khăn trong hoạt động kinh tế báo chí đó là việc xây dựng và áp dụng các mô hình kinh doanh báo chí - truyền thông chưa thực sự phù hợp. Ngay từ xuất phát điểm ban đầu, tiếp cận của báo chí (đặc biệt là báo điện tử) cho phép được đọc miễn phí, thậm chí đã định hình thói quen khó thay đổi của công chúng. Thực tế hiện nay, nhiều tin tức báo chí được đưa lên mạng xã hội mà không trả bản quyền. Dù rằng bài báo đó là một tác phẩm do lao động của nhà báo, của cơ quan báo chí tạo ra, tốn nhiều chi phí. Nếu không tìm cách bảo vệ được bản quyền và tính phí sử dụng, cơ quan báo chí sẽ mất nguồn thu, sẽ không tiếp tục phát triển được nội dung chuyên biệt, đặc sắc. Vòng xoáy suy giảm chất lượng sẽ tiếp tục lún sâu khi mức độ đầu tư ngân sách cố định ngày càng giảm thiểu không đủ đáp ứng sự phát triển. Vì vậy, cần có những giải pháp đột phá hơn về bản quyền và mô hình thu phí bản quyền trong không gian mạng.
Về mặt pháp luật, hiện nay Việt Nam chưa điều chỉnh cơ chế, phương thức bắt buộc các nền tảng lớn có số lượng người dung nhiều như Google, Facebook đã phải trả tiền khai thác thông tin (việc này đã được một số nước thực hiện). Tuy số tiền đó không nhiều nhưng bước đầu đã được thực hiện. Quy định về sở hữu trí tuệ với sản phẩm báo chí chưa thể hiện rõ trong luật bản quyền và sở hữu trí tuệ. Trong Luật Báo chí có điều khoản quy định nguồn thu của các cơ quan báo chí được thu từ khai thác bản quyền, nhưng trên thực tế có lẽ chỉ một phần của truyền hình có thể thực hiện tốt, còn lại với các báo, báo điện tử thì chưa làm được. Tình trạng sao chép, xâm phạm bản quyền báo chí tràn lan mà chưa có giải pháp phù hợp là thực tế mà báo chí Việt Nam đang phải đối mặt.
Mỗi tờ báo phải chọn một phân khúc thị trường phù hợp với tôn chỉ, mục đích cũng như thế mạnh của đơn vị và khai thác sâu thị trường đó. Sự khác biệt của mỗi tờ báo sẽ là yếu tố quan trọng nhất để tồn tại, để có chỗ đứng trong lòng độc giả. Đi tìm sự khác biệt sẽ là công việc đầu tiên, quan trọng nhất của mỗi tờ báo. Kinh tế báo chí cũng từ đó giúp cho các nhà báo có thể sống được với nghề và tự hào với nghề của mình.
2.4. Điểm nghẽn trong việc hài hòa mối quan hệ lợi ích, tạo động lực cho sự phát triển nền báo chí - truyền thông đặc thù Việt Nam
Trong vòng một thập kỷ qua, xuất hiện một khái niệm “xã hội hoá” trong báo chí để mô tả sự tham gia của các nguồn lực xã hội khác nhau trong hoạt động báo chí - truyền thông, dù rằng cách hiểu về xã hội hoá như vậy là chưa thật đúng hàm nghĩa. Dù muốn hay không thì báo chí - truyền thông có thể phát triển được thì vấn đề đầu tiên cần được giải quyết đó là nguồn kinh phí. Hoạt động báo chí - truyền thông vận hành với chi phí tốn kém nên vấn đề trên lại càng trở nên quan trọng. Nhưng ai sẽ là là người cung cấp tài chính cho thị trường truyền thông hiện đại? Phải tham gia vào tiến trình xã hội hoá, trước hết là xã hội hoá về nguồn kinh phí đầu tư cho sản xuất nội dung, sở hữu tư liệu sản xuất thì nền sản xuất đó mới có điều kiện phát triển. Thế nhưng người đầu tư là ai? Họ được lợi gì, và nói đúng hơn vị thế “họ sẽ là ai” trong hoạt động này?
Chúng ta hiểu rằng động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Nguyên nhân kinh tế báo chí - truyền thông chưa phát triển có yếu tố từ việc chưa tìm ra chìa khóa trong việc đảm bảo lợi ích, hài hòa lợi ích chung của tập thể, của xã hội trong một giai đoạn lịch sử với lợi ích cá nhân, quyền lợi cá nhân của một nhóm người, một giai tầng trong xã hội. Động lực của sự phát triển xã hội suy cho cùng là kết quả hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những lợi ích nhất định. Lợi ích là một trong những động lực cơ bản của sự phát triển cũng như động lực thúc đẩy hành động của mỗi cá nhân. Chỉ riêng nội bộ một cơ quan (chưa tính đến việc có sự tham gia từ bên ngoài), nếu chỉ o bế thu nhập cố định vào chính sách tiền lương cố định, sẽ khó có thể thúc đẩy vai trò đột phá, sáng tạo và dấu ấn cá nhân đổi mới sáng tạo. Trong nhiều cái đích của lợi ích thì có yếu tố sở hữu, chúng ta không thể lảng tránh câu hỏi quan trọng rằng những người tham gia hoạt động báo chí truyền thông (cả bên trong và bên ngoài cơ quan, doanh nghiệp đó) sẽ có cơ hội sở hữu tư liệu sản xuất như thế nào? Gắn kết lợi ích và quyền sở hữu của họ vào tổ chức, liệu có làm tổ chức thêm vững mạnh và phát triển? Có thể vừa đảm bảo mục tiêu và lợi ích của tập thể hài hòa với mục tiêu và lợi ích của cá nhân để tạo ra động lực phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đạt được những mục tiêu cao hơn hay không?
Quan điểm tiên quyết là hoạt động báo chí nhất thiết, triệt để không được “tư nhân hóa”, không để tư nhân sở hữu báo chí, không để nhóm lợi ích chi phối báo chí là điều “bất biến”. Nhưng việc lý giải nguyên tắc này dường như chưa thật đầy đủ. Sự thật thực tế là sẽ có những yếu tố cá nhân, những mầm mống gây bất lợi cho định hướng hoạt động báo chí cách mạng. Nhưng nếu “cấm-cản” toàn bộ cũng đồng nghĩa là tạo ra rào cản với những nhân tố tích cực, những lực lượng tiên phong khác. Liệu có mâu thuẫn khi vừa đòi hỏi báo chí đạt được mục tiêu kinh tế, nhưng lại tránh biểu hiện thị trường hóa, mong muốn có sự tham gia của đông đảo các đối tượng/giai tầng trong xã hội nhưng lại đề phòng tư nhân hóa; e ngại tự diễn biến, tự chuyển hóa nhưng chưa thừa nhận vai trò tích cực của những lực lượng phi công lập. Bài toán đặt ra là cần củng cố phần then chốt là công tác quản lý và vai trò quản lý của lãnh đạo cơ quan báo chí, đồng thời thúc đẩy sự tham gia lành mạnh của các nguồn lực xã hội, nhất là trong ứng dụng công nghệ mới, nguồn vốn tri thức, kinh nghiệm thị trường…
Nghiên cứu văn kiện Đại hội Đảng XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta thấy đảng nhấn mạnh việc cần ưu tiên, khuyến khích lợi ích riêng nhằm kích thích vai trò của cá nhân trong các hoạt động xã hội, nhưng phải định hướng cho quá trình thực hiện lợi ích riêng hướng vào lợi ích chung của cả xã hội. Nhưng trong lĩnh vực cụ thể của báo chí - truyền thông, chúng ta mới chỉ có khái niệm “liên kết báo chí, liên kết xuất bản”; thực tế cho thấy các phương thức này vẫn chưa tạo thành động lực huy động tối đa các nguồn lực cho sự phát triển. làm thế nào để các lực lượng xã hội có thể phát huy năng lực, thực hiện lợi ích chính đáng của mình, nhưng nhất thiết phải thực hiện lợi ích xã hội, cụ thể là mục tiêu, quan điểm thông tin tuyên truyền của cơ quan báo chí -truyền thông.
Trong mối quan hệ lợi ích, đặc biệt giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đã tạo nên những động lực thúc đẩy hoạt động của con người, của sự biến đổi xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là tất cả những lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, v.v. gắn liền với từng cá nhân cụ thể và dùng để thỏa mãn các nhu cầu riêng của cá nhân đó, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Lợi ích xã hội là cái phản ánh quan hệ nhu cầu của xã hội và là cái dùng để thỏa mãn nhu cầu chung của toàn xã hội về một (một số) đối tượng (vật chất, tinh thần) nhất định, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, thể hiện các quan hệ cơ bản và lâu dài của xã hội. Lợi ích xã hội ở đây không phải là lợi ích của một nhóm người, một giai tầng, mà đó là lợi ích của cả dân tộc, trong đó có lợi ích chung của các cá nhân cấu thành lợi ích cộng đồng, dân tộc, của cả dân tộc và không mâu thuẫn với lợi ích chung của nhân loại tiến bộ.
Chúng ta có thể tham khảo, phân tích thêm về bài học kinh nhiệm từ quốc gia có cùng thể chế với Việt Nam là Trung Quốc với những thử nghiệm, tiến tới điều chỉnh (giới hạn và có điều kiện) về hoạt động của lĩnh vực báo chí tư nhân, nhằm từng bước thúc đẩy vai trò tham gia của các chủ thể vào tất cả các quá trình phát triển kinh tế báo chí -truyền thông. Cần hết sức thận trọng, nghiêm túc nhưng cũng nên có những thử nghiệm trong phạm vi cho phép.
2.5. Điểm nghẽn trong xây dựng cấu trúc hệ thống tổng thể của nền kinh tế báo chí - truyền thông và thể chế quản lý báo chí - truyền thông đáp ứng yêu cầu mới
Một trong những câu hỏi khác cũng được đặt ra trong quá trình giải quyết bài toán kinh tế cho báo chí – truyền thông đó là trong việc sắp xếp hệ thống báo chí toàn quốc. Theo nội dung của Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025, để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và nâng cao chất lượng, các cơ quan báo chí phải xác định các loại hình báo chí. Ngoài những tờ báo có chức năng, nhiệm vụ đặc thù được nhà nước tiếp tục cấp ngân sách để hoạt động (dưới hình thức đặt hàng), còn lại hầu hết các tòa soạn sẽ phải tự chủ về tài chính. Hoạt động theo cơ chế tự chủ đồng nghĩa với việc cơ quan báo chí sẽ quản trị theo mô hình doanh nghiệp. Làm thế nào để tòa soạn có kinh phí vận hành bộ máy, như chi phí xuất bản, chi trả lương, thưởng, nhuận bút, văn phòng phẩm…? Trong khi đó, báo chí còn là công cụ tuyên truyền của đảng và nhà nước, là diễn đàn của nhân dân, bởi vậy, không thể vì tăng doanh thu mà để bị “lá cải hóa”, xa rời tôn chỉ, mục đích. Thông tin thế nào để vừa trung thực khách quan, đúng bản chất sự thật mà lại hấp dẫn, thu hút nhiều độc giả là một bài toán luôn đặt ra đối với mỗi tòa soạn, trước mỗi quyết định xuất bản kỳ báo, tạp chí.
Để khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải đầu tư thì có nhất thiết phải duy trì một hệ thống dàn hàng ngang theo từng địa phương hành chính, theo từng ngành nghề lĩnh vực hay không? Chúng ta quy hoạch về số lượng hay về bản chất cần quy hoạch nguồn ngân sách nhà nước cho hoạt động báo chí truyền thông? Những đơn vị thụ hưởng ngân sách phải đạt được mục tiêu gì, chỉ số nào khi nhận ngân sách từ đồng thuế mà mỗi người dân đóng góp?. Ngoài ra, vấn đề đội ngũ tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý, vận hành hoạt động kinh tế báo chí - truyền thông cũng là một điểm yếu. Kiến thức kinh tế, khả năng quản lý quản trị kinh doanh chưa/không là tiêu chí bắt buộc đối với lãnh đạo cơ quan báo chí. Ngay ở tòa soạn của các báo, vấn đề kinh tế báo chí cũng đã được đề cập thường xuyên, nhưng thực sự để làm kinh tế báo chí một cách bài bản, chuyên nghiệp và hiệu quả thì không phải cơ quan báo chí nào cũng đạt được. Nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực của các cơ quan báo chí chuyên trách về công tác này chưa chuyên nghiệp, chưa đạt được yêu cầu vừa hiểu biết về báo chí vừa phải có kiến thức về công nghệ, marketing và thị trường.
Quản lý và phát triển báo chí là để phát triển bền vững. Quản lý phải theo kịp sự phát triển của xã hội. Với tinh thần tăng cường quản lý, kỷ cương để báo chí phát triển tốt hơn, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước, cần đổi mới cách quản lý, sự phát triển các quan điểm mới của đảng, của nhà nước về quản lý báo chí, theo kịp sự phát triển của xã hội, theo kịp sự phát triển của công nghệ. Quản lý nhà nước về báo chí thì quản lý là để phát triển báo chí bền vững. Muốn phát triển bền vững, trước tiên phải vững về kinh tế. Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí có quản lý hoạt động kinh tế báo chí, nếu quản thì quản đến đâu, phạm vi nào? Phát triển kinh tế báo chí chắc chắn cũng sinh ra những vấn đề mới, nhưng phát triển thì mới có thêm nguồn lực để xử lý những vấn đề mới. Và phát triển thì mới không bị tụt hậu, không bị thôn tính. Mục tiêu của quản lý kinh tế báo chí ở cấp độ nhà nước cần xác định như thế nào, để báo chí cách mạng làm tốt hơn nhiệm vụ chính trị của mình trong tình hình mới.
Ổn định hoạt động kinh tế báo chí - truyền thông hiện nay phải được coi là tiền đề, có ổn định thì mới phát triển; đồng thời phải đặt ra được mục tiêu và sự đổi mới. Quản lý nhà nước cần xây dựng thể chế gì cho sự phát triển kinh tế báo chí? Thể chế theo mô hình đặc thù Việt Nam có gì khác với các nước khác trên thế giới. Cách quản lý kinh tế báo chí rõ ràng, tường minh như thế nào để cả hệ thống báo chí có thể neo vịn một cách thống nhất, như có sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Quản lý kinh tế báo chí ở mức nào, ở tối thiểu hay tối đa, tự giác hay thắt chặt, có đủ nghiêm minh và sức răn đe? Chúng ta chưa có đủ công cụ để quản lý kinh tế báo chí, chí ít ở mức tối thiểu là thống kê thông tin. Muốn quản lý được lĩnh vực kinh tế báo chí thì nhất thiết phải có công cụ đặc thù, không phải là bản báo cáo tổng hợp của một/vài đơn vị, hay chỉ thống kế các cơ quan trọng điểm mà phải giám sát toàn diện, nhìn thấy cả trực tiếp và trực tuyến các đối tượng quản lý của mình. Hơn nữa, quản lý kinh tế báo chí phải sớm phát hiện được vấn đề, từ đó có những biện pháp điều chỉnh cho phù hợp, nhất là trong bối cảnh khung khổ luật pháp chưa thực sự đầy đủ và bao quát hết những nội dung mới phát sinh trong thực tiễn.
Chúng ta đã nhìn thấy đầy đủ các “nút thắt”, lộ được hết những khó khăn hay còn né tránh? Sự phát triển kinh tế báo chí đòi hỏi sự thay đổi cách tiếp cận để tránh phức tạp hóa, tiêu cực hóa vấn đề. Sự thực là chưa có giải pháp nào về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo mô hình kinh tế báo chí truyền thông đặc thù Việt Nam, đủ sức gợi mở ra các cách tiếp cận mới trong sản xuất kinh doanh truyền thông mà cả trong quản lý báo chí truyền thông. Đổi mới động kinh tế báo chí truyền thông chính là mắt xích chính yếu để đổi mới toàn diện hệ thống báo chí - truyền thông trong bối cảnh số. Đổi mới, phát triển cũng là cách để quản lý tốt hơn. Phát triển và đổi mới thì mở rộng nguồn lực. Có phát triển thì mới sống được để tử tế. Có phát triển thì mới có thêm nguồn lực để quản lý. Những thách thức, những nút thắt trên cần sớm được đánh giá, phân tích toàn diện, cặn kẽ, khoa học; để sự phát triển kinh tế báo chí - truyền thông trong giai đoạn mới có sự chuyển biến tích cực và rõ ràng.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
[1] Quy mô thị trường truyền thông còn lớn hơn thị trường xuất khẩu gạo, tính theo số liệu chính thức của chính phủ https://baochinhphu.vn/mo-rong...
2. Báo cáo toàn cảnh báo chí truyền thông Việt Nam 2023-2024, Global PR Hub, Hà Nội, tháng 2.2024
3. Kỷ yếu Hội nghị Báo chí toàn quốc tổng kết công tác năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024.
4. Ngành Thông tin và Truyền thông, sách nghiệp vụ, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2023.
5. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 2013
6. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Luật Báo chí 2016