Góc nhìn chuyên gia

Một số bất cập của Luật Báo chí năm 2016 - Thực trạng và hướng hoàn thiện

ThS. Nguyễn Thành Phương - TS. Nguyễn Thị Cẩm Hồng 02/04/2024 15:33

Luật Báo chí quy định khá đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, tạo điều kiện cho hoạt động nghiệp vụ báo chí, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu và hợp tác, hỗ trợ cơ quan báo chí, tác nghiệp của phóng viên. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật đã bộc lộ một số khó khăn, bất cập trong áp dụng cần được phân tích, làm rõ và đưa ra những giải pháp sửa đổi nhằm phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.

Tóm tắt: Bài viết sẽ tập trung phân tích và làm rõ những bất cập trong quy định của Luật báo chí năm 2016 như: vấn đề thu hồi giấy phép, các quy định về xuất khẩu, nhập khẩu báo in, phạm vi điều chỉnh của Luật Báo chí năm 2016…,. Đồng thời, đề xuất một số biện pháp hoàn thiện pháp luật báo chí trong tương lai.

1. Đặt vấn đề

Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, Kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 05/4/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Đến nay, các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí đã được ban hành đầy đủ với 02 Nghị định và 04 Thông tư (03 Thông tư của Bộ Thông tin và Truyền thông, 01 Thông tư của Bộ Tài chính).

Tại thời điểm ban hành, Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý để hoạt động báo chí và các hoạt động liên quan đến báo chí phát triển, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của nhân dân được bảo đảm và phát huy trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; đồng thời nhanh chóng, kịp thời điều chỉnh nhiều vấn đề nảy sinh; đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động báo chí; từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về báo chí trong giai đoạn vừa qua; tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Luật Báo chí quy định khá đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, tạo điều kiện cho hoạt động nghiệp vụ báo chí, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu và hợp tác, hỗ trợ cơ quan báo chí, tác nghiệp của phóng viên. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật đã bộc lộ một số khó khăn, bất cập trong áp dụng cần được phân tích, làm rõ và đưa ra những giải pháp sửa đổi nhằm phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.

2. Thực trạng quy định pháp luật về Luật Báo chí năm 2016

2.1. Quy định về thu hồi giấy phép hoạt động báo chí

Trên cơ sở Điều 18, Điều 29 và Điều 31 Luật Báo chí năm 2016 đã có những quy định liên quan đến việc cấp các loại giấy phép trong hoạt động báo chí, cũng như thu hồi giấy phép trong những trường hợp nhất định như cơ quan báo chí không được thành lập hoặc không có sản phẩm báo chí thì giấy phép hết hiệu lực. Đồng nghĩa sẽ bị Bộ Thông tin và Truyền thông tiến hành thu hồi giấy phép. Thực tiễn thi hành cho thấy cơ quan báo chí dù đang hoạt động, nhưng không còn bảo đảm các điều kiện hoạt động nhưng luật định vẫn chưa có những biện pháp tiến hành thu hồi giấy phép.

Bởi thực tế để được cấp phép hoạt động các cơ quan báo chí phải tiến hành đề nghị cấp phép, cùng với đó là những cam kết có liên quan như bảo đảm về tổ chức, nhân sự, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương án tài chính. Dẫu vậy, trong quá trình hoạt động, một số cơ quan báo chí dù đã được cấp phép hoạt động nhưng không có người đứng đầu cơ quan báo chí, không có kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất nghèo nàn, một số trường hợp không có phóng viên chính thức để tiến hành các hoạt động có liên quan. Nhìn chung, sự đóng góp cho xã hội của các cơ quan báo chí này rất hạn chế, tuy nhiên, những hệ lụy có thể phát sinh từ những cơ quan này hoàn toàn có thể xảy ra như lợi dụng tư cách báo chí để sách nhiễu các doanh nghiệp nhằm trục lợi bất chính cho cá nhân. Điều này thiết nghĩ cần có những điều khoản điều chỉnh thu hồi giấy phép các cơ quan báo chí nếu tiến trình chưa đạt được những cam kết, hiệu quả như đề án đã đề ra.

Bên cạnh đó, tại Điều 59 Luật Báo chí năm 2016 đã điều chỉnh vấn đề có liên quan đến về xử lý vi phạm trong lĩnh vực báo chí, dù luật định đã cho phép cơ quan thẩm quyền có thể tiến hành thu hồi giấy phép thông qua một số hình thức nhất định. Tuy nhiên, lại chưa làm rõ về trình tự, thủ tục thu hồi giấy phép hoạt động. Từ đó, cơ quan chức năng gặp nhiều lúng túng trong quá trình áp dụng thực hiện, khi quá trình áp dụng việc thu hồi giấy phép theo Điều 59 Luật Báo chí năm 2016 còn phải dẫn chiếu thực hện theo các quy định có liên quan tại Luật Xử lý vi phạm hành chính[1].

2.2. Quy định về xuất khẩu, nhập khẩu báo in

Căn cứ tại Điều 54 Luật Báo chí 2016 quy định việc xuất khẩu, nhập khẩu báo in như sau:

(i) Báo in xuất bản hợp pháp tại Việt Nam được phép xuất khẩu ra nước ngoài.

(ii) Việc nhập khẩu báo in được thực hiện thông qua cơ sở xuất khẩu, nhập khẩu báo chí do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp giấy phép.

(iii) Cơ sở nhập khẩu báo in phải đăng ký danh Mục báo chí nhập khẩu với Bộ Thông tin và Truyền thông trước khi nhập khẩu.

(iv) Người đứng đầu cơ sở nhập khẩu báo in phải tổ chức kiểm tra nội dung báo chí nhập khẩu trước khi phát hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung báo in mà mình nhập khẩu.

Thông qua đó, việc nhập khẩu báo in sẽ được tiến hành triển khai thực hiện thông qua các cơ sở xuất khẩu, nhập khẩu báo chí, các cơ sở này sẽ do Bộ Thông tin và Truyền thông tiến hành kiểm duyệt và cấp giấy phép hoạt động. Tuy nhiên, khi phân tích vấn đề này thì luật định vẫn tồn tại những “khoảng trống” nhất định, bởi vẫn chưa có những điều khoản điều chỉnh có liên quan đến các điều kiện, nhân lực, về vốn…, cũng như trình tự, thủ tục tiến hành đăng ký hoạt động để các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu báo chí có thể được cấp phép hoạt động chính thức. Điều này cần được hiệu chỉnh, bổ sung một cách kịp thời để việc áp dụng pháp luật được thực hiện một cách thống nhất, cũng như là tiền đề các các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực này có thể hoàn thành hồ sơ, thủ tục theo đúng yêu cầu đặt ra.

Ngoài ra, khi phân tích vấn đề có liên quan đến các hoạt động về xuất khẩu, nhập khẩu báo in, nhận thấy rằng, tại khoản 4 Điều 54 Luật Báo chí năm 2016 đã có quy định về người đứng đầu các cơ sở xuất khẩu, nhập khẩu báo in phải tổ chức sẽ tiến hành kiểm tra các nội dung liên quan đến các ấn phẩm, báo chí nhập khẩu trước khi phát hành ra thị trường, đồng thời chủ thể này cũng sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung có liên quan đến báo in mà cơ sở đã nhập khẩu và phân phối trên thị trường. Điều này là cần thiết để tránh những hệ lụy có thể xảy ra, nếu sản phẩm in ấn mang những thông tin sai lệch, ảnh hưởng đến các cơ quan tổ chức khác. Tuy nhiên, Luật định lại chưa có những điều khoản điều chỉnh về tiêu chuẩn nghiệp vụ của của người tiến hành kiểm duyệt nội dung báo báo chí nhập khẩu. Đồng thời, với vấn đề này cần nên làm rõ các cơ quan, chủ thể có chức năng phối hợp kiểm tra những thông tin về sản phẩm báo chí nhập khẩu thay vì chỉ dựa trên quan điểm của một cá nhân như hiện nay.

2.3. Về phạm vi điều chỉnh của Luật Báo chí

Trong bối cảnh phát triển kinh tế số diễn ra một cách mạnh mẽ, nhận thấy rằng Luật Báo chí hiện nay vẫn chưa điều chỉnh bao quát hết thảy các mô hình, hoạt động của báo chí, truyền thông. Bởi thực tế, việc tổ chức và hoạt động theo mô hình tòa soạn hội tụ, truyền thông đa phương tiện; báo chí công nghệ, sử dụng trí tuệ nhân tạo và cung cấp nội dung xuyên biên giới; hội tụ về nhân lực, hạ tầng, công nghệ, nguồn dữ liệu, sản xuất nội dung để phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhiều loại hình báo chí, các nền tảng công nghệ, các phương thức truyền thông mới là xu thế phát triển của báo chí hiện đại nhưng đến nay Luật Báo chí vẫn chưa bao quát trọn vẹn. Khi mà, ngoài 04 loại hình báo chí được điều chỉnh bởi Luật Báo chí, vẫn tồn tại nhiều loại hình hoạt động thông tin mang tính chất tương đồng như báo chí như: Mạng xã hội, trang thông tin điện tử, ứng dụng trong nước và xuyên biên giới cung cấp thông tin, video, chương trình phát thanh, truyền hình. Dù các kênh thông tin này có thể truyền tải những nội dung như báo chí, truyền hình…, nhưng vẫn chưa được điều chỉnh cụ thể dẫn đến tồn tại nhiều luồn thông tin chưa được kiểm soát một cách chặt chẽ.

Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai cấp giấy phép hoạt động báo chí điện tử trên tên miền. Tuy nhiên, do tính chất của hoạt động này, nhiều cơ quan báo chí chủ động xây dựng ứng dụng (app) tự phân phối nội dung trên Internet hoặc mở thêm kênh phân phối nội dung báo chí trên các nền tảng mạng xã hội trong nước và xuyên biên giới như các kênh trên Youtube, TikTok, mở fanpage trên Facebook, Lotus, Zalo…, không chỉ dừng lại ở giới hạn hoạt động trên tên miền như đã được cấp ban đầu. Đây thiết nghĩ là một xu thế tất yếu của quá trình chuyển đổi số báo chí để lan tỏa nội dung báo chí đến người đọc theo những phương thức bao quát hơn, nhằm khai thác nguồn thu quảng cáo cho doanh nghiệp.

Tuy nhiên, xu thế này sẽ đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý, đặc biệt là khi xảy ra sai sót hoặc tranh chấp trên những nền tảng xuyên biên giới chưa tuân thủ pháp luật Việt Nam. Khi mà, theo xu hướng các cơ quan báo chí điện tử thực hiện đa phương tiện, cung cấp thêm các video, audio cùng với các bài viết dẫn đến tình trạng ngày càng nhiều báo điện tử đã thực hiện làm các chuyên trang media, video, chuyên trang phát thanh (radio), tổ chức sản xuất các bản tin, chuyên đề truyền hình phát trên internet tại địa chỉ tên miền được cấp phép hoạt động báo điện tử, trên cơ sở được cấp phép thêm hình thức “media”. Việc các báo điện tử hiện được cấp phép thực hiện thêm các hình thức media, đang cạnh tranh trực tiếp với các Đài Phát thanh, truyền hình, dẫn đến khó khăn cho các Đài trong quá trình hoạt động.

Ngoài ra, do sự phát triển của internet băng rộng, đã xuất hiện nhiều dịch vụ cung cấp nội dung truyền hình (gồm: phim, chương trình âm nhạc, chương trình truyền hình - TV show) theo yêu cầu trên mạng internet (gọi là OTT VOD) của doanh nghiệp nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào lãnh thổ Việt Nam, có thu phí như: Netflix, iFlix, Wetv, Spotify… Nội dung cung cấp trên các dịch vụ được chuyển ngữ tiếng Việt, không qua cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình biên tập, kiểm soát theo quy định của Luật Báo chí, Nghị định số 06/2016/NĐ-CP ngày 18/01/2016 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình. Bên cạnh đó, các mạng xã hội chia sẻ video trong nước (như: Zing TV, Keeng Movies…) thực hiện không đúng giấy phép mạng xã hội, cung cấp dịch vụ OTT VOD (chủ yếu phim, các chương trình phát thanh, truyền hình), không qua cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình biên tập, kiểm soát. Một số mạng xã hội có thu phí người xem thông qua hình thức nâng cấp thành viên. Một số đối tượng lợi dụng việc chỉ cung cấp VOD để không phải thực hiện theo quy định tại Nghị định số 06/2016/NĐ-CP. Nhiều đơn vị sự nghiệp (điển hình như Đài Truyền hình Việt Nam) có nhu cầu được cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền - OTT TV để kinh doanh các sản phẩm của Đài nhưng không thuộc đối tượng được cấp phép theo quy định tại Điều 51 Luật Báo chí [2]. Từ vấn đề trên, Luật Báo chí cần có những quy định quản lý phù hợp bảo đảm mặt bằng phát triển chung và công bằng giữa báo chí với các loại hình truyền thông khác, cũng như điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh của sự phát triển.

2.4. Quy định về văn phòng đại diện, phóng viên thường trú

Trên cơ sở Điều 22 Luật Báo chí năm 2016 quy định về điều kiện và hoạt động của văn phòng đại diện, phóng viên thường trú, song thực tế triển khai thời gian qua tồn tại những bất cập như:

Thứ nhất, Luật Báo chí chưa có quy định giới hạn số lượng văn phòng đại diện, phóng viên thường trú hoặc quy mô cơ quan báo chí ra sao sẽ được tiến hành thành lập văn phòng đại diện, cũng như được thành lập bao nhiêu văn phòng; chính những bất cập này dẫn đến hiện trạng một người vẫn có thể đại diện làm trưởng văn phòng của nhiều văn phòng đại diện khác nhau, điều này không thể hiện được chức năng và vai trò của người đại diện văn phòng. Bởi quy định chưa có sự chặt chẽ này dẫn đến tình trạng một số tạp chí khoa học đã lợi dụng tiến hành mở nhiều văn phòng đại diện, về chức năng các văn phòng này không cử phóng viên thường trú tập trung vào các hoạt động nghiên cứu, thông tin khoa học có liên quan, nhưng chính yếu tập trung khai thác những vấn đề tiêu cực, bất cập của địa phương [3].

Thứ hai, mô hình văn phòng đại diện chưa có sự thống nhất tại nước ta hiện nay, khi một số văn phòng đại diện sẽ đặt văn phòng tại một tỉnh thành để đại diện cho một địa phương. Tuy nhiên, cũng có trường hợp văn phòng đại diện có thể đại diện cho cả khu vực gồm nhiều tỉnh thành. Ngoài ra, vẫn tồn tại nhiều văn phòng đại diện chỉ có Trưởng văn phòng có thẻ hành nghề nhà báo, với đội ngũ phóng viên thuộc văn phòng lại không có chuyên môn, nghiệp vụ về báo chí làm cộng tác viên, không đáp ứng được yêu cầu về năng lực và trình độ của người làm báo. Nhiều văn phòng đại diện được thành lập nhưng không được cơ quan báo chí cấp kinh phí hoặc đứng tên các hợp đồng thuê trụ sở, các phóng viên, cộng tác viên không có hợp đồng hoặc được đóng bảo hiểm xã hội qua cơ quan báo chí, gây khó khăn trong việc xác định thế nào là văn phòng đại diện đủ điều kiện hoạt động. Qua đây, luật định cũng nên làm rõ việc Trưởng văn phòng đại diện được cấp con dấu để chủ động trong hoạt động tác nghiệp của văn phòng, việc tuyển dụng nhân lực hoạt động trong văn phòng cũng là vấn đề cần được xem xét và quy định cụ thể trong giai đoạn hiện nay.

2.6. Quy định về tạp chí khoa học

Tại Khoản 16 Điều 3 và khoản 2 Điều 14 Luật Báo chí năm 2016 đã quy định về khái niệm và đối tượng thành lập tạp chí khoa học. Theo đó, các tạp chí khoa học hiện chiếm đến 37% tổng số cơ quan báo chí, mang tính đặc thù hơn so với các sản phẩm báo chí thông thường khác với chức năng chính là công bố kết quả nghiên cứu khoa học, thông tin về hoạt động khoa học chuyên ngành. Tuy nhiên, các quy định của Luật Báo chí về tạp chí khoa học còn chưa đầy đủ để tạo cơ sở cho sự phát triển của sản phẩm này; chưa quy định về tiêu chí và điều kiện bảo đảm chất lượng khoa học, chưa quy định trách nhiệm của cơ quan chủ quản trong việc bảo đảm chất lượng khoa học.

Đại bộ phận tạp chí khoa học hoạt động theo cơ chế bao cấp từ cơ quan chủ quản, với nguồn kinh phí được cấp không đáng kể và gần như không có nguồn thu thương mại. Nhiều cơ quan chủ quản của tạp chí khoa học không thành lập cơ quan báo chí mà chỉ huy động nhân sự của các phòng, ban trực thuộc làm kiêm nhiệm công tác xuất bản tạp chí. Khi đó, nhân sự của các tạp chí này thường kiêm nhiệm bởi các cán bộ nghiên cứu, giảng viên, giáo sư, bác sĩ, chuyên gia có học hàm, học vị khoa học. Đối với các tạp chí khoa học, người đứng đầu đóng vai trò quan trọng, mặc dù đã được ưu tiên hơn về điều kiện xét cấp thẻ nhà báo, nhưng cần có uy tín, chuyên môn sâu để có thể phụ trách, biên tập, duyệt đăng các bài viết có hàm lượng nghiên cứu khoa học cao. Nhiều trường hợp người đứng đầu hoặc dự kiến bổ nhiệm người đứng đầu tạp chí có thể là người có uy tín trong giới nghiên cứu khoa học, nhưng lại không đáp ứng đầy đủ các điều kiện về tiêu chuẩn chính trị hoặc độ tuổi bổ nhiệm lần đầu, gây khó khăn cho công tác tìm kiếm người đứng đầu tạp chí khoa học cũng như khó khăn cho công tác hiệp y bổ nhiệm.

2.7. Quy định về giải thể, phá sản cơ quan báo chí

Về bản chất các cơ quan, tổ chức có thể tiến thành các thủ tục có liên quan đến giải thể, phá sản nếu hoạt động không hiệu quả. Tuy nhiên cho đến nay Luật Báo chí chưa có quy định liên quan đến việc chấm dứt, giải thể pháp nhân của cơ quan báo chí sau khi Bộ Thông tin và Truyền thông đã thu hồi giấy phép hoạt động báo chí. Trên thực tế, cơ quan báo chí không còn giấy phép hoạt động vẫn còn tồn tại pháp nhân để giải quyết các nghĩa vụ liên quan như tài chính, tài sản, lao động, bảo hiểm, nghĩa vụ thuế... Việc này tách biệt hoàn toàn với hoạt động chuyên môn nghiệp vụ về báo chí. Có nhiều trường hợp, việc giải quyết dứt điểm các vấn đề phát sinh sau khi đã chấm dứt hoạt động báo chí có thể kéo dài nhiều năm trời; có trường hợp lợi dụng tư cách pháp nhân, sử dụng con dấu để thực hiện các công việc khác.

Bên cạnh đó, liên quan đến việc giải thể đối với đơn vị sự nghiệp công lập đã có quy định tại Nghị định 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định về việc thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có rất nhiều cơ quan báo chí thuộc hội, viện, không phải là sự nghiệp công lập nên không thể áp dụng được quy định này. Ngoài ra, các thủ tục có liên quan đến việc phá sản, chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập trên lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, trong trường hợp cơ quan báo chí mất khả năng thanh toán, bị cấp có thẩm quyền tuyên bố phá sản thì hiện nay vẫn chưa có quy trình thực hiện thủ tục phá sản theo Luật phá sản năm 2014.

3. Kiến nghị hoàn thiện

Sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí là việc làm cần thiết nhằm giải quyết, khắc phục triệt để những tồn tại, vướng mắc, bất cập và bảo đảm phù hợp với thực tiễn phát triển của lĩnh vực báo chí, truyền thông trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, một số biện pháp sẽ được đề xuất hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Điều 18, Điều 31 Luật Báo chí theo hướng thu hồi giấy phép hoạt động khi cơ quan báo chí không bảo đảm các điều kiện theo quy định tại Điều 17, Điều 30 Luật Báo chí; khoản 2 Điều 59 Luật Báo chí theo hướng quy định cụ thể trình tự, thủ tục thu hồi giấy phép khi xử lý vi phạm.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 15 Luật Báo chí theo hướng nâng cao vai trò, quyền hạn của cơ quan chủ quản báo chí; cơ quan chủ quản bảo đảm nguồn lực và quản lý giám sát, đánh giá hoạt động. Bổ sung biện pháp xử lý trách nhiệm người đứng đầu và cá nhân liên quan của cơ quan chủ quản khi để cơ quan báo chí xảy ra sai phạm.

Thứ ba, cân nhắc, xem xét sửa đổi tên Luật Báo chí thành “Luật Báo chí truyền thông”, mở rộng phạm vi điều chỉnh để bao quát các loại hình truyền thông hiện đại; làm rõ khái niệm, thúc đẩy phát triển tổ hợp báo chí - truyền thông, hệ sinh thái báo chí; khái niệm “chủ bút, chủ báo”…; điều chỉnh quy định về mô hình cơ quan báo chí, các loại hình báo chí, thông tin, truyền thông, từ đó bổ sung quy định quản lý phù hợp. Đồng thời, bổ sung quy định quản lý các nội dung liên quan đến các loại hình hoạt động cung cấp nội dung thông tin trên trang thông tin điện tử, mạng xã hội; quy định rõ điều kiện thành lập, hoạt động, vai trò, nhiệm vụ của trang tin điện tử tổng hợp; điều chỉnh quy định về hoạt động cung cấp nội dung phát thanh, truyền hình, cung cấp dịch vụ truyền dẫn phát sóng phát thanh, truyền hình phù hợp với thực tiễn và quản lý theo cách hiện đại, áp dụng công nghệ số.

Thứ tư, sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí theo hướng tạo ra hành lang pháp lý để xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các nền tảng công nghệ số trong nước, phân phối nội dung thông tin báo chí; phát triển cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện, tổ hợp báo chí - truyền thông, báo chí trên nền tảng số; xây dựng công cụ/nền tảng thu thập, xử lý dữ liệu, đánh giá, dự báo, phản ánh chất lượng báo chí, xây dựng chỉ số đánh giá truyền thông xã hội dựa trên tác động của các nội dung tin tức trên không gian mạng từ các báo nhằm bảo đảm tính khách quan, trung thực phục vụ công tác quản lý báo chí; xây dựng dữ liệu độc giả; tự động hoá quy trình sản xuất, biên tập nội dung; ứng dụng công nghệ để nâng cao chất lượng nội dung và cải thiện trải nghiệm của người dùng; phát triển các mô hình liên kết giữa báo chí với công ty công nghệ, nhà mạng viễn thông, doanh nghiệp quảng cáo, các nền tảng xuyên biên giới; chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế để đẩy mạnh chuyển đổi số.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung Điều 54 theo hướng giao Bộ Ngoại giao là cơ quan quản lý báo chí nước ngoài thực hiện quản lý đối với hoạt động nhập khẩu báo in, đảm bảo nội dung báo chí nhập khẩu phù hợp với chính sách, pháp luật về báo chí của Việt Nam. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 21 Luật Báo chí theo hướng quy định loại hình hoạt động và quy mô, phương thức hoạt động của cơ quan báo chí cho phù hợp, bao quát cả đối với cơ quan báo chí thuộc các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, viện nghiên cứu, cũng như các quy định nhằm thúc đẩy các mô hình kinh tế báo chí mới, chuyển đổi cơ cấu và đa dạng hóa doanh thu báo chí, phát triển mô hình báo chí điện tử thu phí nội dung.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung Điều 22 Luật Báo chí theo hướng quy định rõ một số mô hình chung của văn phòng đại diện phù hợp với cơ cấu, tổ chức và quy mô cơ quan báo chí; quy định số lượng văn phòng đại diện, phóng viên thường trú tương ứng với quy mô của cơ quan báo chí; bổ sung điều kiện, cơ cấu, quyền hạn và nhiệm vụ, quyền hạn của văn phòng đại diện, trưởng văn phòng đại diện. Quy định tạp chí nghiên cứu khoa học thì không mở văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú; bổ sung điều kiện phóng viên thuộc văn phòng đại diện phải có hợp đồng chính thức với cơ quan báo chí; quy định cụ thể số lượng phóng viên thường trú độc lập tại mỗi địa phương là 01 người…

Thứ bảy, phương án sửa đổi, bổ sung quy định về tạp chí khoa học:

Phương án 1: Sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí theo hướng phân định tạp chí khoa học với các sản phẩm báo chí khác. Quy định tiêu chí, điều kiện khoa học để thành lập tạp chí khoa học. Tạo cơ chế đặc thù về mô hình, ngân sách hoạt động, cơ chế tài chính của tạp chí khoa học; tiêu chuẩn, điều kiện người đứng đầu tạp chí khoa học cần đặc thù so với các cơ quan báo chí khác.

Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí theo hướng không quy định các ấn phẩm công bố các nghiên cứu khoa học hoặc bài viết khoa học là cơ quan báo chí, không chịu sự điều chỉnh của Luật Báo chí. Ngoài ra, cũng cần sửa đổi, bổ sung khoản 3, 6 và 15 Điều 3 Luật Báo chí theo hướng phân định rõ báo in và tạp chí, báo điện tử và tạp chí điện tử. Làm rõ nội hàm về khái niệm, tính chất thông tin, thời gian định kỳ xuất bản của tạp chí, tạp chí điện tử.

Thứ tám, bổ sung quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục giải thể, phá sản của cơ quan báo chí; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Đây thiết nghĩ là những vấn đề cần thiết để kiến tạo pháp luật về báo chí được trọn vẹn, tránh những thiếu sót do thiếu căn cứ pháp luật để áp dụng trong giai đoạn hiện nay.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

[1] Cao Vũ Minh, Hoàn thiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21 (2018), tr.46.

[2] [3] Dự thảo Báo cáo tổng kết thi hành Luật Báo chí năm 2016.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật phá sản năm 2014
  2. Luật Báo chí năm 2016
  3. Nghị định 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định về việc thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập
  4. Cao Vũ Minh, “Hoàn thiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21 (2018).
  5. Dự thảo Báo cáo tổng kết thi hành Luật Báo chí năm 2016.

ThS. Nguyễn Thành Phương - TS. Nguyễn Thị Cẩm Hồng